 |
Xuất Gia Không Quên Chí
Trung Trinh
Hòa Thượng
Tuyên Hóa
Đài Bắc, Đài Loan. Ngày 12 tháng 1, năm 1993. |
|
Trích
dịch
từ
In Memory of the Venerable Master Hsuan Hua.
Vol. 2

Hôm nay có cảm xúc, tôi muốn
chia
sẻ những điều mình đang nghĩ với quý vị. Nếu
quý vị muốn nghe thì cứ nghe thử cho biết, còn nếu
không muốn nghe thì có thể rút lui.
Tôi muốn nói những gì? Tôi đến
nước Mỹ đã hơn 30 năm rồi, Nhẩm tính thử bao nhiêu
ngày, tháng, năm đã trôi qua mới thấy cũng chẳng
ngắn ngủi gì. Bất luận là người Mỹ hay người Hoa, ai
nấy đều hy vọng tôi sẽ chịu đổi quốc tịch, nhập quốc
tịch Mỹ, trở thành công dân Mỹ. Họ nói rằng thẻ
thông hành Mỹ là thuận tiện nhất trong việc đi cùng
khắp mọi nơi trên thế giới, công dân Mỹ đi đến đâu
cũng được người ta cung kính vì nể; trong khi tánh
cách của thẻ thông hành của Trung Hoa thì lại không
được như vậy. Nếu quý vị có thẻ thông hành của Trung
Hoa Dân Quốc (Đài Loan) thì đảng Cộng Sản sẽ không
cấp chiếu khán cho quý vị để vào nước của ho. Người
cộng sản sẽ kỳ thị quý vị. Còn nếu quý vị có thẻ
thông hành của nước Nhân Dân Trung Quốc, thì đi đến
các nước khác càng làm người ta sợ quý vị. Người ta
sợ không phải Trung Quốc là một nước lớn đông dân,
nhưng sợ chính quyền gây rắc rối. Do đó tốt nhất là
hãy trở thành công dân Mỹ càng sớm càng tốt.
Trong hơn 30 năm nay, có rất
nhiều người, là viên chức cũng như dân, đã đề cập
với tôi vấn đề này. Tôi vẫn là người Trung Hoa, dù
cho nước Trung Hoa xấu xa và lạc hậu như thế nào
dưới chính thể của Đảng C ộng
Sản hay Quốc Dân Đảng. Báo chí nói rằng nếu không
phải do Đảng Cộng Sản thì tôi đã không lưu lạc ra
nước ngoài. À! Chắc chắn không phải vì sợ Đảng Cộng
sản mà tôi ra nước ngoài. Ở Mãn Châu (Manchuria),
khi tôi rời Cáp Nhĩ Tân (Harbin) đến Kiết Lâm
(Jilin), tôi tự do đi. Nhưng khi tôi muốn quay trở
về thì họ đòi phải có giấy đặc biệt, bởi vì tôi
không cư trú trong vùng Cộng Sản, nên tôi không thể
quay trở về. Từ Kiết Lâm tôi đến Cẩm Châu (Jinzhou).
Sau
khi tôi rời Cáp Nhĩ Tân, thì Cáp Nhĩ Tân bị Cộng
Sản chiếm. Khi tôi đến Kiết Lâm, Quốc Dân Đảng vẫn
còn kiểm soát nơi này, nhưng giao thông giữa Kiết
Lâm và Cáp Nhĩ Tân thì bị cắt đứt. Tôi bèn đi đến
Trường Xuân. Khi tôi đến Trường Xuân rồi thì không
thể nào quay về lại Kiết Lâm được. Tôi mới đi đến
Liêu Ninh và nghĩ sẽ quay về Cáp Nhĩ Tân. Mọi người
lo lắng và khuyến cáo tôi đừng quay trở về. Sau đó
tôi đi Thiên Tân và ở tại Đại Bi Viện. Lúc đó tôi
vẫn còn là Sa Di
(*).
Sau đó tôi rời Thiên Tân và đi Thượng Hải, và sau đó
đến Vũ Xương.
Dọc đường, tôi vùa rời nơi
nào, thì nơi đó bị Cộng Sản chiếm. Và như thế là tôi
đến Quảng Châu vào ngày 18 tháng 8 âm lịch. Từ đó
tôi đến Hương Cảng. Ba ngày sau khi tôi rời đi,
Quảng Châu cũng bị Cộng Sản chiếm. Và sau khi tối
đến Hương Cảng thì không còn cách nào để quay về lại
Quảng Châu. Điều này là do thời điểm và hoàn cảnh
kết hợp tạo nên. Chắc chắn không phải là do tôi sợ
Cộng Sản. Suốt cuộc đời tôi, tôi không sợ trời,
không sợ đất, không sợ quỷ thần. Và tôi cũng không
sợ những người Mỹ biết nói tiếng Trung Hoa! Tôi sống
ở Hương Cảng hơn mười năm.
Tôi đến Hương Cảng vào
năm 1948, và đến Hoa Kỳ vào năm 1962. Khi tôi ở
Hương Cảng, tôi có đi đến nước Úc, Miến Điện, Thái
Lan và Tân Gia Ba
(Singapore). Tuy nhiên những nơi tôi đến
thì tôi không
được hoan ngênh. Vì sao? Vì tôi không có nhiều nhân
duyên với những người nơi đó. Người ta thấy tôi là
chạy ra xa. Người xuất gia và tại gia đều như vậy.
Năm 1962, tôi sang Hoa Kỳ và
trong thời gian đầu, tôi sống trong một nhà kho
nhỏ dưới mặt đất. Căn hầm này chỉ có cửa ra vào chứ
không có cửa sổ, ban ngày thì tối om, ban đêm thì
đương nhiên càng tối hơn nữa, thật chẳng khác nào
đang sống trong ngôi mộ vậy! Vì thế, sau khi đến Hoa
Kỳ, tôi tự chế giễu chính mình và tự gọi mình là “Mộ
Trung Tăng” (một ông thầy tu ở trong mộ). Tại sao
tôi lại tự chọn cho mình biệt hiệu này? Bởi tôi
không muốn tranh danh, không muốn tranh lợi với
người khác, không muốn cùng người tranh hơn thua.
Tôi giống như một kẻ đã nằm trong mộ rồi vậy.
Ở Đông Bắc, sau khi xuất gia,
tôi cũng đã từng có một biệt hiệu. Biệt hiệu gì? Đó
là “Hoạt Tử Nhân”. Vì sao lại gọi là “Hoạt Tử Nhân”?
Bởi tôi tuy rằng thân còn sống, nhưng tôi không hề
tranh danh đoạt lợi với người khác. Tôi không tranh
chấp với ai cả và tôi cũng chẳng tham lam. Suốt đời
tôi, bất luận làm công việc gì tôi cũng không bao
giờ mong cầu sự đền đáp, không nhận tiền bạc, cho
nên gọi là “Hoạt Tử Nhân”. Tấm thân này tuy vẫn còn
sống đấy, nhưng cũng chẳng khác nào đã chết rồi vậy.
Đến Hoa Kỳ, tôi lại có thêm biệt hiệu “Mộ Trung
Tăng”. Khi các trường đại học mời tôi đến diễn
giảng, tôi cũng dùng danh nghĩa “Mộ Trung Tăng” để
đi giảng.
Cứ như thế một thời gian, cho
đến khoảng năm 1968 hay 1966 gì đó, tôi gặp một
người hiện cũng là thành viên và có mặt trong phái
đoàn này, đó là Professor Epstein, tức là
Tiến Sĩ Epstein, mà cũng là cư sĩ Epstein.
Tôi cũng không biết nên gọi ông ta như thế nào cho
phải nữa. Sau đó, ông sang Đài Loan để học tiếng
Trung Hoa. Tôi bèn căn dặn ông hãy tìm một vị thiện
tri thức ở Đài Loan để xin quy y Tam Bảo vì ông vốn
là một tín đồ đạo Do Thái. Tôi có giới thiệu với ông
về một vài vị Pháp Sư tại Đài Loan; và ông đã đến
từng nơi để viếng thăm nhưng lại cảm thấy không có
nhân duyên, không phải là con người không có nhân
duyên mà là tiền bạc không có nhân duyên! Ông ta nói
rằng ở Đài Loan, mọi Phật sự đề đòi hỏi tiền bạc.
Quy y với ai cũng phải nộp phong bì đỏ (đựng tiền).
Ông ta lại chẳng có bao nhiêu tiền nên không qui y
được. Trở về lại Hoa Kỳ, ông ta bèn xin quy y với
tôi. Tôi bảo: “hãy từ từ, thong thả đã”.
Sau đó, ông ta dẫn hơn 30
người từ Seatle tới chùa. Những người này đa số là
sinh viên đang chuẩn bị lấy bằng Tiến Sĩ,
Cao Học,
Cử Nhân, ngoài ra còn có một số không phải là
sinh viên nhưng cũng tháp tùng theo. Vì ông ta có
nhân duyên thuận lợi với người Mỹ nên đã giới thiệu
họ đến nghe giảng kinh Lăng Nghiêm. Khóa giảng Kinh
Lăng Nghiêm này đã được tổ chức vào dịp hè và kéo
dài 96 ngày. Sau đó, có một số sinh viên từ Seatle
chuyển trường đến San Francisco và Tiến Sĩ Epstein
cũng là một trong số những người này.
Kể từ khi họ dọn đến San
Francisco, mỗi ngày tôi đều giảng kinh thuyết pháp.
Chí nguyện của tôi là hễ còn dù chỉ một hơi thở thì
tôi sẽ vẫn còn giảng Kinh thuyết Pháp, chỉ khi nào
không còn hơi thở nữa thì tôi mới thôi giảng Kinh
thuyết Pháp! Do đó, mặc dù hiện tại đang bị bệnh
hoạn, tôi vẫn có gắng hết sức mình để thuyết Pháp
cho quý vị nghe. Tôi biết rằng không hẳn là mọi
người đều muốn nghe giáo pháp mà tôi thuyết giảng,
thế nhưng tôi cũng không thể vì đại đa số không
thích nghe mà
không giảng. Tôi vẫn cứ giảng cho dù là
chỉ có độc nhất một người muốn nghe tôi nói Pháp,
thì tôi cũng giảng, thậm chí không có người nghe thì
tôi cũng vẫn cứ giảng cho quỷ, thần, những kẻ có
linh tánh nghe, đây là một ý nguyện đơn giản, đại
khái của tôi.
Tôi đọc báo thấy có nói rằng:
“Ông Tuyên Hoá này là một Lưu Lãng Hán” (một kẻ lang
bạt)! Đúng vậy! Hiện tại tôi là một “Lưu Lãng Hán”.
Tuy rằng Trung Hoa Dân Quốc chưa chắc đã ưa gì một
quốc dân như tôi và Đại Lục cũng chưa chắc đã muốn
có một quốc dân như tôi, bởi có thêm tôi thì quốc
gia cũng chẳng đông đúc hơn mà bớt tôi đi thì lại
cũng chẳng thấy thiếu vắng gì. Thế nhưng, tôi là
người Trung Hoa và tôi vẫn nhớ cội nguồn của mình!
Tôi là một người không bao giờ quên quê xưa chốn cũ,
cho nên tôi có viết mấy câu bằng văn vần, thơ thì
không phải thơ, mà kệ thì cũng chẳng ra kệ, thôi thì
tạm gọi đó là những lời nói rất đơn giản vậy.
Nay tôi từ Hoa Kỳ trở về Đài
Loan nhưng không phải để giảng Kinh thuyết Pháp,
không phải để hoằng Pháp, mà là để viếng thăm, để
học hỏi tất cả các bậc kỳ đức cao
tăng. Tôi không là
cao tăng, cũng chẳng phải kỳ đức, cho nên báo chí
gọi tôi bằng những danh xưng như vậy thật khiến tôi
vô cùng thổ thẹn, không dám nhận. Trước kia, lúc còn
trẻ, tôi muốn làm cách mạng nhưng không có khả năng
thành công. Sau đó, tôi không hỏi han gì đến chuyện
hưng suy của tình hình chính trị, đến chuyện trị
loạn nữa! Tôi cũng không để tâm tới nữa! Tôi đã là
một “Hoạt Tử Nhân”, một xác chết còn hoạt động, một
thầy tu trong hầm mộ, không thể so sánh nổi với các
thầy tu khác. Các thầy đều có đạo có đưc, có khả
năng hoằng dương Phật Pháp. Còn tôi là kẻ thiếu tư
cách hoằng dương Phật Pháp, nên tôi không có tư cách
hoằng dương Phật Pháp, tôi chỉ học hỏi từ quý vị!
Sau cùng, tôi muốn nói về mấy câu “Thiển Bạch Đạm
Ngữ” của mình.
BẤT CẢI QUỐC
TỊCH KỆ
Trung Hoa hỗn loạn số
thập niên,
Thương thời cảm sự lệ
thành tuyền.
Thử sanh quý cụ hồi
thiên thủ,
Vãng tích nan đàn lạc
nhật huyền.
Thế đồ kỳ khu nhân quỷ
trá,
Quan hải phù trầm bỉ
thử tiễn.
Xuất gia vị vọng trung
trinh chí,
Bảo trì quốc tịch tố
bổn nguyên.
KHÔNG ĐỔI QUỐC
TỊCH
Trung Hoa rối loạn mấy
mươi năm,
Xót thương vận nước lệ
thành sông.
Thẹn mình chẳng đủ tài
chuyển đổi,
Dở dang cung điệu “mặt
trời sa”.
Đường đời khúc khuỷu, quỷ,
người lấn,
Quan trường chìm nổi đó,
đây chen.
Xuất gia vẫn vẹn chí trung
trinh,
Bảo tồn quốc tịch
- trở về
nguồn!
Tám câu “Thiển Bạch Đạm Ngữ”
này nói rõ tư tưởng, hành vi và chí nguyện của tôi.
Bây giờ tôi sẽ giải thích sơ lược tám câu ấy.
Trung Hoa hỗn loạn số thập
niên (Nước Trung Hoa đắm chìm trong trong cảnh rối
loạn suốt mấy thập niên).
Đây là nói dân Trung Hoa chúng tôi sống trong cảnh
(thủy
thâm hoả nhiệt) “nước sôi lửa bỏng” mà vẫn chưa thức
tỉnh, vẫn chưa có lòng “báo quốc”. Tôi có nói rằng
Đài Loan đang ở vào thế “Lũy noãn”, như đang ngồi trên trứng vậy, tại sao?
Bởi vì ai nấy đều tự cho mình là chính, không đoàn
kết. Những thương nhân phát tài rất lớn thì họ nên
tận trung báo quốc, thế nhưng họ đều không tin tưởng
ở quốc gia. Làm sao chứng minh được là họ không tin
tưởng? Bởi vì họ đều đầu tư ở nước ngoài, tẩu tán
tài sản quốc gia mình ra nước ngoài, những thương
nhân này không đủ lòng yêu nước. Dù quý vị có “phú
xưng địch quốc”
(giàu có vô cùng)
đi chăng nữa, nhưng nếu không có tư
tưởng báo quốc thì quý vị vẫn chỉ là những kẻ nghèo
cùng mà thôi! Đây là hạng người không hiểu đạo lý,
không yêu nước, không giúp đỡ tổ quốc, mà chỉ biết
ích kỷ, mưu đồ lợi lộc cá nhân, đây là một điểm.
Tuy nói rằng bá tánh có kẻ tin
Phật, thế nhưng kẻ không tin vẫn còn rất nhiều, đây
là một tổn thất cho quốc gia. Nếu bá tánh đều chân
chính tin Phật, lễ bái Đức Phật, hiểu nhân quả, thì
họ sẽ không làm những chuyện như giết người, phóng
hỏa, trộm cắp, cướp giật, nghiện ngập, đầu cơ tích
trữ để thủ lợi, chơi xổ số, hoặc mua cổ phiếu, họ sẽ
không có những hành vi như vậy! Những hành vi ấy là
một trong những điềm bất tường cho nước nhà.
Còn học sinh thì hoàn toàn
quên mất giáo dục, chỉ chú trọng đến hình thức giả
dối bên ngoài, đem Khổng Giáo để đằng sau đầu óc,
không còn ai đề xướng những đạo lý Hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, trung tâm ái quốc
nữa, mà chỉ biết ra sức cầu danh cầu lợi, đây
cũng là một điềm bất tường cho nước nhà.
Nếu mọi người đều không biết quý trọng, yêu chuộng
tánh mạng và tài sản của chính họ, lại phung phí một
cách tùy tiện, cẩu thả, đó
cũng là một điều hết sức bất tường đối với nước nhà.
Có câu rằng:
“Dân
vi bang bổn,
Bổn cố bang ninh”.
(Dân là gốc của nước nhà,
Gốc có vững vàng thì nước
mới được yên ổn.)
Hành động như vậy mang lại vô số sự không may, vô số
điều bất lợi cho quốc gia, vì thế nên tôi mới nói
rằng Đài Loan đang lâm vào thế “Lũy
noãn”, đang ngồi trên đống trứng, một tình thế
rất là nguy hiểm! Nói như vậy không phải là
phóng đại để gây sự chú ý hoặc cố ý làm cho
người khác lo sợ, tôi hoàn toàn không có ý đó.
Trong số những người hiện đang
phát tài, làm ăn phát đạt, có kẻ nào cống hiến toàn
bộ tài sản của mình cho quốc gia đâu? Tài sản nhỏ
thì không nói làm gì, tôi muốn nói tới những kẻ có
tài sản đồ sộ kia. Tôi chưa hề nghe nói ở Đài Loan
có người nào vì quốc gia mà cống hiến hết cả tài sản
của mình, hoàn toàn không có! Chỉ rặt toàn là vì cá
nhân, ích kỷ, tự lợi, chỉ biết lo để của cho con
cháu đời sau mà thôi. Thật ra,
“Dưỡng tử cường như
phụ,
Nhĩ
lưu tài
tố thập ma?”
(Nuôi
con mạnh như cha,
Để của lại
làm gì?)
nếu con của quý vị mà hơn
quý vị, có chí khí, có bản lĩnh hơn quý vị, nếu quý
vị phát tài được thì con quý vị sẽ càng phát tài hơn quý vị
nữa, quý vị để của lại cho
con nhiều như thế để làm gì
kia chứ? Cho nên nói rằng:
“Nhi tôn tự hữu nhi tôn
phúc,
mạc vi
nhi tôn tác mã
ngưu.”
(Con
cháu tự có phúc con cháu,
Đừng vì con
cháu làm trâu ngựa.)
Quý vị mà tiền càng nhiều,
chết đi rồi cũng chẳng mang theo vô quan tài được.
Câu nói này của tôi nhiều người đã từng nghe qua,
thế nhưng mọi người đều không chú ý tới điểm này,
người người đều quên mất cái logic học này, tất cả
đều ở đó mà tranh giành, tham lam, cầu khẩn, ích kỷ,
tự lợi, nói dối. Tôi nói đây là nói về đại đa số chứ
không phải là thiểu số. Quý vị
đừng tưởng rằng có
người cũng sẵn sàng hiến tặng hết cả tài sản của họ
cho quốc gia. Trường hợp đó chỉ là thiểu số, rất
hiếm hoi, không nhiều đâu. (cho nên tôi nói là
Trung Hoa hỗn loạn số thập niên).
Thương thời cảm sự lệ thành
tuyền ( Xót
thương cho thời thế nên nước mắt chảy thành suối).
Bởi tôi đau buồn, xót xa cho thời thế, lại thương
cảm cho thế sự, nên nước mắt chảy thành sông. Có rất
nhiều người thông minh nhưng lại không làm chuyện
thông minh, cứ làm chuyện hồ đồ; và cũng có rất
nhiều kẻ hồ đồ muốn làm chuyện thông minh nhưng lại
không biết cách làm, đây là một loại không viên mãn,
không hoàn hảo (trường hợp đáng tiếc).
Thử sanh quý cụ hồi thiên
thủ ( Thân
này hổ thẹn bởi không có khả năng “xoay trời”).
Thân này, cho đến cuối cuộc đời này, tôi thiếu tài
“hồi thiên”, không có bản lãnh xoay chuyển cơ trời.
Nếu tôi có tài “hồi thiên”, tôi nên khiến cho cả
Trung Hoa Dân Quốc và Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà
đều suy nghĩ, làm cho họ đều biết cách cứu quốc, trị
quốc, quản lý thiên hạ và làm sao để có được phong
độ của một “đường đường đại quốc”.
Vãng tích nan đàn lạc nhật
huyền (Xưa kia khó đàn được cung điệu “mặt trời
sa”). Vì sao trước kia tôi muốn làm Cách mạng?
Vì thấy Nhật Bản xâm lược Trung Quốc một cách
quá
không công bình, nên tôi muốn làm Cách mạng để đánh
đuổi người Nhật. Tuy nhiên tôi trước sau vẫn không
đi theo con đường đó; và vì thế, tôi không còn để
tâm hỏi han về tới thế sự nữa.
Thế
đồ kỳ khu nhân quỷ trá (Trên đường đời khúc khuỷu,
quỷ và người lừa đảo lẫn nhau).
Tôi lại thấy rằng “ thế đồ kỳ khu”- con đường của
thế gian thật là gập ghềnh khúc khuỷu, quanh co
ngoằn ngoèo, khó đi và rất hiểm trở. “ Nhân quỷ trá”
- người Trung Hoa thường lừa đảo “ quỷ lão:. “Quỷ
lão” học được trò này nên cũng dung thủ đoạn ấy trả
đũa người Trung Hoa. Họ [dĩ nha hoàn nha] “ăn miếng
trả miếng” - bạn lừa dối tôi, thì tôi cũng gạt gẫm
bạn – và toàn thế giới trở thành một nơi lừa đảo lẫn
nhau.
Quan hải phù trầm bỉ thử
tiễn (Chốn quan trường chìm nổi, kẻ này tranh chấp
với kẻ kia). Những người làm quan đều “ bài trừ
dị kỷ”- gạt bỏ những kẻ đối lập, không cùng quan
điểm với mình. Bạn thuộc về đảng phái này của tôi,
thì tôi bài xích, công kích, chống đối bạn, khiến
bạn uất ức, bất đắc chí; cho nên nói ở chốn quan
trường ai nấy “ hỗ tương ngao tiễn”- hãm hại lẫn
nhau.
Xuất gia vị vọng trung
trinh chí (Tuy
xuất gia nhưng vẫn chưa quên ý chí trung thành với
đất nước).
Tuy rằng đã xuất gia, tôi không hề quên tư tưởng “
trung tâm vị quốc”
-
lòng trung thành,
lòng yêu nước
- tôi không thể thay đổi chí khí của mình. Chí khí
của tôi là “ tôi là người Trung Hoa, mãi mãi là
người Trung Hoa. “Đời đời, kiếp kiếp, ở mọi nơi, mọi
chỗ, tôi sẽ luôn luôn là người Trung Hoa.
Đến lúc người Trung Hoa thật
sự được hùng mạnh, cường thịnh, thì tôi có thể vẫn
còn mà cũng có thể là không còn tại thế nữa – nhưng
bất kể sống hay chết, tôi hy vọng rằng trong đời
này, ít nhất là tôi không đổi quốc tịch. Tôi không
ham bất kỳ sự lợi lộc và thuận lợi nào cả; cho nên
tôi quyết
Bảo
trì quốc tịch tố bổn nguyên (Không đổi quốc tịch,
tìm về với cội nguồn). Tôi không thay đổi quốc
tịch của mình – tôi không hề quên cội nguồn.
Đây là mấy câu “ thiển bạch
đạm ngữ” của tôi; bây giờ có lẽ quý vị cũng đã hiểu
được phần nào về tôi.
Ghi chú:
(*) Ở đây
Hòa Thượng chỉ kể vắn tắt. Theo sách Cuộc
Đời và Đạo Nghiệp của Hòa Thượng Tuyên Hóa
http://dharmasite.net/CuocDoi&DaoNghiepCuaHTTH.pdf
(trang 17 - 18)
thì giai đoạn này là vào năm 1946, Hòa Thượng Tuyên Hóa lúc đó
còn là Sa Di. Đến năm 1947 Ngài mới Thọ giới Cụ Túc:
Năm 1946
- 29 tuổi
-
Giữa
tháng 8, muốn đến Tào Khê thân cận
Lão Hòa Thượng Hư
Vân, đi ngang qua Trường
Xuân, Liêu Ninh đến Thiên
Tân. Ở lại
Đại Bi Viện
nghe Pháp sư Đàm Hư
giảng Kinh Lăng
Nghiêm. Sau
đi thuyền
đến Chánh Giác Tự,
Hồ Bắc,
nhận lãnh nhiều
công việc
khổ hạnh
trong chùa.
Năm 1947
- 30 tuổi
-
Thọ
giới cụ
túc Tỳ Kheo tại
Pháp Vũ Tự,
Phổ Đà Sơn,
Chiết
Giang, Trung
Hoa.
 |
|
|