Vietnamese|English


Lược Giảng Kinh Kim Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật 

Hòa Thượng Tuyên Hóa

tại Phật Giáo Giảng Ðường, San Francisco từ tháng 11 năm 1968 đến tháng 4 năm 1969.

 

(tiếp theo)

Phần ba:

Ðại Thừa Chánh Tông

Phật cáo Tu Bồ Ðề: Chư Bồ Tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết Bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố, Tu Bồ Ðề, nhược Bồ Tát hữu ngã tướng nhân tướng chúng sanh tướng thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát.

Phật bảo Tu-bồ-đề: Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát, nên như thế mà hàng phục tâm.

Có hết thảy các loài chúng sanh, hoặc từ trứng sanh, hoặc từ thai sanh, hoặc từ ẩm thấp sanh, hoặc từ hóa sanh, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tư tưởng, hoặc không có tư tưởng, hoặc chẳng phải có tư tưởng, cũng chẳng phải không có tư tưởng, ta đều khiến vào Vô-dư niết-bàn mà được diệt độ.

Tuy diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh như thế, nhưng thật ra không có chúng sanh nào được diệt độ cả. Vì sao? Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không phải là Bồ-tát.

 

Lược giải:

Phật bảo Tu-bồ-đề: Các vị Bồ-tát Ma-ha tát, nên như thế mà hàng phục tâm.

Mấy chữ "Các vị Bồ-tát," là nói nhiều Bồ-tát, cũng có thể chỉ tất cả các vị Bồ-tát, mà cũng có thể chỉ một vị Bồ-tát. Ðó là vị Bồ-tát nào? Chính là vị nào muốn hàng phục tâm.

Tại làm sao giảng chữ "các" (chư) lại có thể giảng là tất cả, có thể giảng là nhiều, mà cũng có thể giảng là một vị vậy? Chúng ta nên hiểu rằng, nhiều chính là một, một chính là nhiều. Nhiều là do họp lại nhiều một mà thành, nên một tức nhiều, nhiều tức một. Nhìn qua thì tựa như có hai, chẳng đồng một thứ, kỳ thật chẳng phải là hai thứ khác nhau.

Vị Bồ-tát đó là ai vậy? Quí vị muốn biết chăng? Quí vị thực muốn biết ư, vậy thì chính là quí vị đó! Quí vị nói rằng: "Tôi chỉ là kẻ phàm phu, chưa thành Bồ-tát." Xin hỏi quí vị có tin rằng quí vị thành Phật không? Tin chớ! Vậy thì Phật còn có thể thành, huống chi là Bồ tát? Vấn đề này khỏi phải bàn nữa.

Nói về "Ma-ha-tát," tức là không phải hàng Bồ-tát nhỏ, mà là các đại Bồ-tát. Danh xưng đại Bồ-tát có bảy ý nghĩa:

1) Thứ nhất là các bậc đại căn, đã từng cúng dường Tam-bảo, lễ bái Tam-bảo, cung kính đối với Tam-bảo từ vô lượng kiếp đến nay, vun trồng bao nhiêu công đức, mà chẳng phải chỉ gieo căn lành trước một vị Phật, mà hai vị, ba vị, bốn, năm vị Phật. Căn lành của các vị này quá lớn, nên gọi là hàng đại căn.

2) Thứ nhì là những bậc đại trí huệ. Thế nào là có trí huệ lớn? Trí huệ lớn là biết phát tâm bồ-đề. Hiện tại quí vị đến đây nghe kinh, tìm hiểu Phật-pháp, tới chỗ này tham gia tham thiền, đâu chẳng phải trong kiếp xưa đã có ít nhiều căn lành, đã có ít nhiều trí huệ? Người nào không có căn lành, một khi tới chỗ này sẽ cảm thấy đứng ngồi không yên, như khỉ nhảy nhót như tâm trạng của chư thiên, khi năm tướng suy hoại xuất hiện, chẳng thể ngồi yên được. Nay quí vị không bỏ chạy. Thậm chí ngày nào tôi cũng quở, cũng đánh, đánh cả trăm phát hương bản. Chịu một trăm cái hương bản chẳng phải là dễ. Tôi không nói rỡn với quí vị, như quả không khai ngộ, thì bất cứ vị nào, cũng nhất định phải chịu trăm phát hương bản đó! Chẳng thà các vị bỏ đi vì bị đánh, còn hơn tôi không làm được cho quí vị khai ngộ.

Có trí huệ lớn, phát tâm bồ-đề, vẫn chưa đủ mà còn phải độ khắp chúng sanh nữa. Vì sao Quán-Thế-âm Bồ-Tát lại thị hiện mọi nơi (phổ môn thị hiện)? Tại vì Ngài có trí huệ lớn, muốn độ khắp chúng sanh. Ðộ chúng sanh nhưng không chấp tướng, không an trụ vào cái tướng "độ chúng sanh." Chấp tướng độ chúng sanh nghĩa là sao? Tỷ như Lương Vũ-Ðế, ông độ sanh nhưng ông lại chấp tướng. Lúc ông gặp Bồ-đề-đạt-ma, vị tổ thứ nhất của Thiền-tông Trung Hoa, ông có hỏi như sau: "Ông coi tôi cúng dường bao nhiêu tăng, cúng trai, làm cầu, tạo chùa miếu, rất nhiều, vậy tôi có công đức chăng?" Nói như vậy là nhà vua đã có ngã tướng, có tâm chấp trước, lòng đã có sự cống cao ngã mạn rồi. Ý như muốn nói rằng tuy ông là một Pháp-sư từ Ấn Ðộ đến, nhưng vị tất ông đã có công đức như tôi chưa. Trong ý tứ đó, ta đã thấy nhà vua muốn Tổ sư Ðạt-ma đội nhà vua lên, muốn cho Tổ sư tán thán mình. Nhưng Tổ đâu có thể làm chuyện đó được? Cho nên, với "trực tâm là đạo tràng," Ngài nói: "Chẳng có công đức gì hết." Vua Lương Vũ-Ðế không vui tí nào, nói: "Cái ông hòa thượng mặt đen cớ sao lại nói ta không có công đức?" Về sau, nhà vua không hội được ý của Bồ-đề-đạt-ma, hai bên không khế hợp, nên tổ sư mới theo Trường giang, đi về phương Bắc, rồi lên Tung sơn Thiếu Lâm.

Ðó là nghĩa của độ sanh mà chấp tướng, nhà vua chấp vào việc độ sanh của mình, muốn cầu một sự ấn chứng của Tổ sư, thừa nhận rằng nhà vua đã có công đức. Ðâu có ngờ, Tổ sư Ðạt-ma, chẳng hề nghĩ tới vấn đề "nhân tình," không hề coi trọng danh vị hoàng-đế, nên mới bỏ đi. Bởi đâu mà Lương Vũ-Ðế lại chấp vào việc mình độ sanh? Bởi thiếu trí huệ. Nếu như ông thực sự có trí huệ chân chánh, thì đã không chấp trước vào tướng độ sanh.

3) Thứ ba là những bậc có niềm tin vào pháp lớn. Có câu nói: "Pháp Phật như biển, chỉ có lòng tin mới vào được." Nếu không có lòng tin thì chỉ đứng nhìn mà than tiếc. Số là pháp Phật thâm sâu như biển, cao như núi Tu-di, không dễ gì mà thâm nhập để hiểu một cách thấu đáo. Cũng như thấy các kinh tạng nhiều như vậy, biết đến ngày nào xem cho hết? Nếu có được lòng tin, tin thực sự vào Phật-pháp, thì sẽ từ chỗ nông đến dần chỗ sâu, từ gần đến xa, do ít mà tới nhiều, từng điểm từng điểm một đem ra nghiên cứu, thì rút cuộc cũng có một ngày thông đạt được bảo tạng của Phật-pháp. Ðó là trường hợp thâm tín và thiết nguyện, nghĩa là đầu tiên phải có lòng tin sâu xa vào Phật-pháp, nhiên hậu mới khẩn thiết phát nguyện học tập và khi đã thông hiểu rồi thì mang ra thực hành. Tóm lại, thâm tín, thiết nguyện, thực hành, ba thứ đó phải coi là khẩn yếu. Còn như chẳng có lòng tin, thì dầu Phật-pháp có hay chăng nữa, cũng không sao tới được.

Thế nào là pháp lớn? Bát-nhã Ba-la-mật chính là pháp lớn. Nghĩa tiếng Phạn là trí huệ. Phải tin vào trí huệ sẵn có của mình. Kim cang kinh nói: "Dù khởi một niệm tịnh tín mà thôi, Như-lai ắt biết, ắt thấy." Quí vị móng khởi một niệm tin tưởng thanh tịnh, Phật sẽ hay biết. Làn sóng điện của quí vị sẽ được Phật tiếp nhận, tức là quí vị đã truyền tin tức đến Phật, được cùng Phật thông tin. Thông như thế nào? Tức là nếu có tín tâm, thì một khi Phật tiếp được tin điện, sẽ hồi báo cho mình, khuyên ta phải siêng năng tu giới, định, huệ, để diệt tham, sân, si. Quí vị thấy, quí vị và Phật đánh điện thông tin, mà quí vị không hay biết gì, thế mới là diệu pháp. Diệu pháp chính là diệu ở chỗ này.

4) Thứ tư là các bậc hiểu được lý lớn. Lý mà cũng có lớn nhỏ chăng? Cố nhiên là có, Về sự tình còn có việc lớn việc nhỏ, không lẽ về đạo lý, không có lý lớn lý nhỏ hay sao? Lý lớn tức là đạo lý lớn, chính là cái ý nghĩa bổn lai của ta là Phật. Phải hiểu lý này. Lý tức Phật, Phật tức lý. Phật là vị đã thành Phật, ta là kẻ chưa thành Phật, Phật và ta bổn lai chỉ là một, không phải hai, không khác nhau. Chẳng qua Phật đã tu đức viên mãn rồi, ta thì chưa tu tới viên mãn, nên chúng ta chưa thành Phật, còn Phật thì đã thành Phật rồi. Tuy nhiên ta cũng chớ hồ đồ, vơ đủa cả nắm mà cho rằng ta là Phật, Phật là ta, nói vậy là không được đâu! Phải nói Phật là chúng sinh đã thành được Phật, chúng sinh là kẻ chưa thành được Phật. Chúng ta phải tin thật như vậy. Chúng ta chưa thành Phật, hiện tại chưa thành, khi thành rồi thì sẽ là Phật.

Tại sao chúng ta phải tin chính bổn lai của chúng ta là Phật? Nguyên do vì thực tướng bát-nhã chẳng lìa khỏi tâm chúng sanh. Tâm của chúng sanh chính là Phật, Phật là chân tâm, chân tâm là Phật, có điều hiện tại chúng ta không phát giác ra chân tâm đó, ngược lại còn lấy vọng tâm làm cái của mình, mang ra xử dụng. So sánh vọng tâm với chân tâm giống như ta so sánh người mù và người mắt sáng. Vọng tâm sánh với người mù, chân tâm sánh với người mắt sáng. Bởi cớ gì chúng ta lại không xử dụng chân tâm? Nó bị mất rồi chăng? Không phải vậy. Vậy cớ sao ta lại xử dụng vọng tâm? Kinh Lăng Nghiêm có giảng rằng: "Một niệm chẳng giác ngộ, sinh ra ba điều vi tế." Khi một niệm không giác ngộ dấy lên, thì liền có ba tướng vi tế sinh ra, che mờ mất chân tâm, và Như-lai tạng không thể hiển hiện được. Nay chúng ta đã tin ở chân tâm, chúng ta vốn đầy đủ trí huệ đức tướng của Phật, nếu như y pháp Phật mà tu hành, tương lai ắt sẽ tới Phật quả.

5) Thứ năm là các bậc tu đại hạnh. Kẻ tu hành, tu chút ít chẳng thể cho là đầy đủ, không thể chỉ ở giữa chừng mà cho là tới đích, không thể tới nửa đường mà đã bỏ cuộc, không thể nhận "hóa thành" làm "bảo sở." Kẻ tu pháp nhị thừa, mới được ít cho là đủ, hoặc giả chứng được sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả, mà không biết bỏ cái nhỏ mà hướng tới cái lớn. Ở giữa chừng mà đã tự vạch ranh giới là tới đích, như trường hợp của tỳ-kheo Vô-văn. Ông ngồi thiền, chứng được cảnh giới của trời tứ thiền, thì vội cho rằng mình đã đạt được tứ quả, tự vạch ra giới tuyến, ghi nhận là đích của mình, không biết rằng mình chỉ mới tới giữa chừng. Bỏ cuộc nửa đường là trường hợp của phàm phu. Kẻ phàm phu đi được vài bước, cũng chưa tới được trời tứ thiền nữa, nhưng thấy đường quá xa, cho rằng mình không thể tới nơi được do đó quay đầu trở lại. Như vậy gọi là nửa đường bỏ cuộc. Có người thì đã vội an nghỉ ở "hóa thành." Trong Kinh Pháp Hoa có phẩm Hoá Thành Dụ. Sao gọi là hóa thành? Số là, những bậc nhị thừa, trên đường tu Bồ-tát đạo, thấy đường dài xa lắc, đầy gian nan, tân khổ, tự cảm thấy mệt mỏi, lòng không muốn bước thêm. Phật thấy mọi người đều khổ sở nên mới biến hóa ra một cái thành thị, rồi bảo mọi người rằng đàng trước có thành phố, chúng ta hãy đến đó để nghỉ ngơi ít ngày và chỗ đó cách mục tiêu của chúng ta không xa lắm. Các vị nhị thừa tới được hoá thành, thấy chỗ này hấp dẫn lắm, nào vàng, bạc, châu báu tất cả đều đầy đủ, lòng muốn dừng lại luôn ở chỗ này, không muốn đi tiếp. Thực tế thì hóa thành là dụ cho cảnh giới mà hàng nhị thừa chứng được, đó là niết-bàn hữu dư y, chưa phải là cứu cánh, chỗ nghỉ ngơi rốt ráo.

Cho nên, trong phẩm Hóa Thành Dụ, của Kinh Pháp Hoa, Phật cảnh giác các hàng đệ tử Thanh-văn, không nên tham luyến hóa thành, mà phải dũng mãnh tiến bước, hướng thẳng tới "bảo sở," nơi này mới là chỗ rốt ráo chứng quả của Như-lai.

Tu đạo là phải nhẫn chịu mọi khổ sở, khó nhọc. Nhẫn là thế nào? Là nhẫn nại gió mưa, chịu đói, chịu khát, chịu rét, chịu nắng, nhẫn những gì mà người ta không nhẫn được, nhường những gì mà người ta không nhường được, ăn những thứ mà người ta không ăn được, nhịn chịu những điều mà không ai chịu nhịn. Người ta không thích ăn đồ này, nhưng ta thì ăn cũng được, cố nhiên không phải cố ý làm ra bộ dạng đó cho mọi người chiêm ngưỡng, mà nhất thiết cái gì cũng phải thực lòng mới được. Phải tu pháp lục độ, mà lục độ là phải bố thí, bố thí cho người chẳng phải bố thí cho chính mình. Giúp người chẳng phải là giúp cho mình. Tôi biết có vị Pháp-sư thực tâm hoan hỉ giúp đỡ mọi người, cho đến có phải chích huyết cho người uống, cắt thịt cho người ăn, vị đó vẫn vui lòng. Thực tâm họ muốn giúp đỡ người mà không muốn ai biết tới. Những vị chân chánh phát bồ-đề tâm tu hạnh lớn không có nói cho mọi người hay: "Tôi là người tu đại hạnh, các người có biết hay không?" Vì lý do đó, quí vị không biết tới họ.

6) Thứ sáu là các bậc đã trải qua nhiều đại kiếp. Sự tu hành của các vị này không phải chỉ có trồng căn lành trong một Phật sát, mà họ đã từng trải qua ba kiếp lớn a-tăng-kỳ, gieo trồng căn lành, tu phước, tu huệ.

7) Thứ bảy là các vị cầu quả lớn. Bởi lý do gì các Bồ-tát lại phải thực hành Bồ-tát đạo? Bởi vì họ hướng tới quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là quả vị Phật. Ðó chính là hy vọng và là mục đích tu hành của các hàng đại Bồ-tát.

Chữ "Ma-ha-tát" có bảy ý nghĩa là như vậy.

Các vị Bồ-tát mà phát tâm, "nên như thế mà hàng phục tâm," thì chữ "như thế" nghĩa là biết pháp đó, nó là lý thể của thực tướng, cho nên không nói ra như thế nào. Từ cái không nói ra đó, không thể không nói tới cái vỏ ngoài của nó.

Có hết thảy các loài chúng sanh, hoặc từ trứng sanh, hoặc từ thai sanh, hoặc từ ẩm thấp sanh, hoặc từ hóa sanh, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tư tưởng, hoặc không có tư tưởng, hoặc chẳng phải có tư tưởng, cũng chẳng phải không tư tưởng, ta đều khiến vào Vô-dư niết-bàn mà được diệt độ.

Nói về hết thảy chúng sanh trong thế gian, thì loài sanh từ trứng (tức noãn sanh) là do yếu tố "tưởng," loài thai sanh do yếu tố "tình," loài thấp sanh do yếu tố "hợp," loài hóa sanh do yếu tố "ly," tóm lại là do "tình, tưởng, hợp, ly," mà biến hóa, chiêu cảm mà thọ nghiệp, theo nghiệp mà thọ báo, mỗi loài một khác. Kinh Lăng Nghiêm kể về 12 loại chúng sanh này hết sức minh bạch.

"Từ trứng sanh" là do yếu tố tưởng mà sinh xuất. Ðại khái như gà ấp trứng, từ sớm đến tối một mực suy tưởng: "Gà con của mình sắp nở ra đây," cứ tưởng miết như vậy, quả nhiên khiến trứng nở ra con. Loại này gồm cả các loài cá, tôm, rùa, rắn.

"Từ thai sanh" là do yếu tố tình. Vì cớ gì có thai? Giữa nam nữ có tình luyến ái, hợp lại với nhau mà thành bào thai. Loài thai sanh gồm cả các giống súc vật, các loài rồng và tiên.

"Loại thấp sanh" là do yếu tố hợp cảm, do hơi ẩm và khí nóng hợp lại mà sanh ra, gồm các loài côn trùng trong nước, các giun sán v.v..

"Loại hóa sanh" là từ yếu tố ly ứng mà ra. Nhân vì lẽ thích mới nới cũ, mà có sự ly khai, từ có hóa không, từ không hóa có, từ nhỏ biến ra lớn, từ lớn biến nhỏ, đại khái như chuột biến thành loài dơi, như con tằm hóa bướm, tất cả đều có sự biến hóa, đổi hình. Loại này gồm cả loài ruồi, nhặng, loài thoát xác bay xa.

Các chúng sanh do các yếu tố tình, tưởng, hợp, ly mà biến hóa, chính là do sự mê vọng mà sanh ra, vì mê vọng mà tạo nghiệp, nhân tạo nghiệp mà thọ quả báo. Thai, trứng, thấp, hóa, loài nào theo loài nấy, cũng vì nhân duyên chung đại khái như nhau nên cùng một loại quả báo như nhau.

Ngoài cách phân loại thành thai, trứng, thấp, hóa, còn có cách phân loại rộng rãi hơn nữa.

Kinh nói: "Hoặc có sắc," tức là loài tinh diệu tốt xấu, xuất sinh từ sự hòa hợp các loạn tưởng về các sắc sáng chiếu (loạn tưởng tinh diệu), như các loài đom-đóm, loài trai có ngọc v.v. "Hoặc không sắc," tức là loài sanh từ các yếu tố không, tán, tiêu, trầm, như các tầng trời tứ không, các loài như thần Hư không (thuấn-nhã-đa thần), thần gió, thần nắng. "Hoặc là loài có tư tưởng," tức không có hình sắc mà chỉ có tư tưởng, nó ẩn hiện như có như không, phảng phất chẳng có thực chất, như các loại quỷ thần, yêu quái, như thần núi, thần nước, các loại gỗ đá thành tinh, các sơn tinh, thủy quái v.v. "Hoặc là loài không có tư tưởng," tức là loài có hình sắc mà không tư tưởng, u mê, ngu độn, tinh thần tựa như gỗ, đất, các loại kim thạch. Tại Hương-cảng có một hòn vọng phu. Tương truyền năm xưa có một người đàn bà, có chồng đi ra biển, kiếm ăn buôn bán. Người chồng đi mãi không về, còn người vợ thì cứ ngày ngày bế con lên núi ngóng ra biển khơi mong chồng. Năm tháng qua lâu mà tin chồng chẳng có, dần dà người vợ hóa thành đá, cho tới nay vẫn còn hòn đá vọng phu, đứng dựng trên đỉnh núi, hướng ra biển khơi trông ngóng.

"Hoặc là loại chẳng phải có tư tưởng," đây chẳng phải là một loại đối lại với loài sanh từ trứng ra - noãn sanh cũng lấy tư tưởng mà truyền lại sanh mạng - mà phát sanh từ sự kết hợp của hai thứ vọng tưởng, đem cái của người cho là của mình, cùng nhau tráo trở, tỷ như trường hợp con tò-vò mà nuôi con của con sâu minh-linh. Kinh thi có câu:

Minh linh hữu tử
Quả doanh phụ chi

Nghĩa là: con sâu minh linh có con, con tò-vò nuôi đỡ. Minh linh là loài sâu ở đọt dâu, con tò vò thì giống loại ong có eo thắt lại. Tò vò kiếm đất làm tổ, nuôi con sâu minh linh ở bên trong, khấn rằng: "Loại ngã! Loại ngã!" nghĩa là "giống như ta." Bảy ngày sau quả nhiên con sâu hóa ra con của tò vò. Cái đó chính là chẳng phải có tư tưởng, do hai thứ khác nhau lẫn lộn mà thành. Nguyên do bởi kiếp xưa chuyên nghề đi lấy tài vật của người khác, đem về làm của mình, nên mới chịu quả báo đó.

"Chẳng phải không có tư tưởng," là nói về loại mang nhiều oán hận từ trước, muốn kiếm sự báo thù, như loài chim kiêu (con chim ưng đầu mèo, tục kêu là chim bất hiếu) bám vào ổ đất để sanh con, khi con lớn lên thì con ăn thịt mẹ. Lại còn một loại muông thú nữa là con phá kính, nuôi con đến khi con lớn thì con ăn thịt cha.

Ở trên vừa thuật qua mười loại chúng sanh, Phật nói trong kinh về các loại này và đều khiến cho tất cả "vào Vô-dư niết-bàn mà được diệt độ." Danh từ niết-bàn là tiếng Phạn, dịch nghĩa là "tịch diệt," về sau dịch là "viên tịch." "Diệt độ" bao gồm ý nghĩa là làm tan nhị chướng và làm tiêu nhị tử. Nhị chướng là hai thứ chướng ngại phát sanh từ phiền não và sở tri. Nhị tử là hai hình thức sanh tử, một là phần đoạn sanh tử, hai là biến dịch sanh tử.

Niết-bàn thì có 4 thứ:

Một là tự tánh thanh tịnh niết-bàn, chung cho tất cả các loài hữu tình, có tính cách bình đẳng, tại phàm phu không giảm, ở các bậc thánh không tăng.

Hai là hữu dư y niết-bàn. Kẻ hữu tình tu hành, dứt được phiền não chướng, nên nguyên nhân của khổ đã hết, nhưng vẫn còn phải nương vào (y) cái thân ngũ uẩn này trong khi chưa hết thọ mạng. Tuy còn mang thân thể này, nhưng phiền não đã diệt, đã đạt được thanh tịnh, nên gọi là "chướng vĩnh tịch."

Ba là vô dư y niết-bàn. Ở đây nhân của phiền não đã tận, quả của phiền não cũng đã tận, liễu sanh thoát tử, gọi là "chúng khổ vĩnh tịch."

Bốn là vô trụ xứ niết-bàn. Hàng nhị thừa đã trừ được phiền não (nhân không), nhưng hãy còn sở tri chướng (chưa được pháp không), nên không trụ vào sanh tử mà trụ ở hữu dư niết-bàn. Các bậc thánh hàng đại thừa, đều diệt cả phiền não và sở tri, nên nhân và pháp đều không, bèn lấy đại trí và đại bi làm phương tiện, chẳng trụ ở sanh tử, cũng chẳng trụ ở niết-bàn, mãi mãi đi cùng khắp để quảng độ chúng sanh, nên gọi là vô trụ xứ niết-bàn.

Tuy diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật ra không có chúng sanh nào được diệt độ cả. Vì sao? Tu-bồ-đề! nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không phải là Bồ-tát.

Vô dư niết-bàn nói trong kinh đây là chỉ hai loại niết-bàn sau cùng, trong số bốn loại nói trên. "Tuy Bồ-tát diệt độ vô lượng vô biên chúng sanh, nhưng thật không có chúng sanh được diệt độ," là nghĩa thế nào? Bởi vì, đây chính là cái toàn thể đại dụng của đại bát-nhã. Cái thể của thực tướng bát-nhã là sự bình đẳng, thấy tất cả chúng sanh là bình đẳng, không khác nhau (vô nhị). Cho nên có câu: "Pháp là bình đẳng, không có cao thấp." Cái dụng của quán chiếu bát-nhã là bổn lai vốn chẳng có tướng, cho nên sau có câu: "Lìa tất cả pháp, gọi là chư Phật (ly nhất thiết chư pháp tức danh chư Phật)."

"Vì lẽ gì" phải lìa bốn tướng để độ chúng sanh? Bởi vì "Bồ-tát mà còn có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng," tức là hãy còn cái tâm phân biệt hư vọng, "thì đâu còn là Bồ-tát nữa?" Tất nhiên trước tiên hàng phục ngã tướng, lìa ba tướng kia, mới có thể độ sanh, mới là Bồ-tát chân chánh.

(còn tiếp)

 

Trở về trang nhà | Về đầu trang