home.gif (90 bytes) Quyển 1 2 3 4 5 6 7 next.gif (92 bytes)

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch từ Hán văn sang tiếng Việt

Mục Lục:

Tâm Nguyện Của Dịch Giả

Thay Lời Tựa

Nghi Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh

A.- Phần Tổng Hiện

Quyển I

1. Tự Phần

B.- Phần Khai Phật-Tri-Kiến

2. Phương Tiện Phẩm

Quyển II

3. Thí Dụ Phẩm

4. Tín giải Phẩm

Quyển III

5. Dược Thảo Dụ Phẩm

6. Thọ Ký Phẩm

7. Hóa Thành Dụ Phẩm

Quyển IV

8. Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký Phẩm

9. Thọ Học Vô Học Nhân Ký Phẩm

10. Pháp Sư Phẩm

C.- Phần Thị Phật-Tri-Kiến

11. Hiện Bửu Tháp Phẩm

D.- Phần Ngộ-Phật Tri-Kiến

12. Ðề Bà Ðạt Ða Phẩm

13. Trì Phẩm

Quyển V

14. An Lạc Hạnh Phẩm

15. Tùng Địa Dũng Xuất Phẩm

16. Như Lai Thọ Lượng Phẩm

17. Phân Biệt Công Đức Phẩm

Quyển VI

18. Tùy Hỷ Công Đức Phẩm

19. Pháp Sư Công Đức Phẩm

20. Thường Bất Khinh Bồ Tát Phẩm

21. Như Lai thần Lực Phẩm

22. Chúc Lụy Phẩm

E.- Phần Nhập Phật-Tri-Kiến

23. Dược Vương Bồ-Tát Bổn Sự Phẩm

Quyển VII

24. Diệu Âm Bồ Tát Phẩm

25. Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm

26. Ðà La Ni Phẩm

27. Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự Phẩm

28. Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát Phẩm

Sự Tích Trì Tụng Kinh Pháp-Hoa Ðược Linh Nghiệm


Tâm Nguyện Của Dịch Giả

Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích.

...........

Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.

 

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.

Chùa Vạn Ðức

Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ.

(08-10-1989)

THÍCH TRÍ TịNH

Cẩn Chí

Thay Lời Tựa

Kinh Pháp Hoa là bộ kinh đại thừa gồm bảy quyển tổng cộng là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng của Phật và Bồ Tát.

Tâm nguyện của Phật là tâm nguyện khắp độ chúng sanh đạt thành đạo quả giác ngộ. Bởi thế nên ngay quyển đầu của kinh về Phẩm Phương Tiện đã nói: "Phật ra đời là vì một nhơn duyên lớn duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật". Thế nghĩa là Phật rộng mở phương tiện pháp môn, chỉ bày chơn tâm Phật tánh để chúng sanh tin tưởng khả năng thánh thiện của mình mà tiến tu đến Phật quả.

Phương tiện của Phật là phương tiện huyền diệu được sanh trưởng và dinh dưỡng bởi trí tuệ từ bi hỷ xả lợi tha có khả năng đưa tất cả chúng sanh đồng chứng nhất thừa Phật quả. Ðức Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành, nếu chúng sanh tinh tấn nỗ lực tu hành thì cũng sẽ thành Phật như ta vậy. Nhưng chúng sanh đắm chìm trong ngũ dục lạc, nên tạo nhiều tội lỗi để rồi hiện thành căn tánh cao thấp, nghiệp duyên nặng nhẹ khác nhau. Ðức Phật lại phải từ đó mà lập ra có muôn ngàn phương tiện để hóa độ. Nghĩa là từ nhứt thượng thừa mà đức Phật đã phải phương tiện huyền khai làm thành ba thừa để rồi sau đó, khi căn tánh chúng sanh thuần thục ngài lại dần dần đưa lên nhứt thừa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Hai mươi tám phẩm Kinh Pháp Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và Ðại Bồ Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh, từ tam thừa Thinh Văn Duyên Giác và Bồ Tát đến quả vị nhứt thừa vô thượng Phật quả.

Nội dung kinh Pháp Hoa cho ta thấy không phương tiện độ sanh nào mà không có, không cửa pháp môn giải thoát rốt ráo nào mà không mở, không cảnh giới Phật nào mầu nhiệm thiện duyên thâm mật với chúng sanh cõi ta bà này mà không ảnh hiện, không hạnh nguyện giáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ Tát mà không thể đạt ba la mật. Thật là một bộ kinh khế hợp cho đủ mọi trình độ căn tánh nghiệp duyên của chúng sanh. Vì thế xưa nay kinh Pháp Hoa đã được không biết bao nhà Phật học huyên bác chú thích sớ giải làm cho kinh Pháp Hoa rạng rỡ từ ngàn năm này đến ngàn năm khác và phổ cập nhân gian. Ðến nỗi nghĩa lý của kinh Pháp Hoa quá ư vi diệu tuyệt vời, kinh bản được đời đời ấn hành phổ biến uy thế tạo thành một tôn phái với danh xưng là Pháp Hoa Tôn hay Thiên Thai Tôn, một tôn phái có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản và Trung Hoa do Trí Giả Ðại Sư thành lập.

Trong thời thế sự cuồng quây, đạo tâm ngày một suy vi, phong hóa niềm tin lay chuyển đến tận gốc rễ như thời này đây, để cho mọi người còn chút phước duyên đang bềnh bồng trên bể đời có thuyền nương tựa, có đất phì nhiêu của bến bờ để gieo giống Bồ Ðề, nên Phật Học Viện Quốc Tế nguyện in lại kinh Pháp Hoa này ngõ hầu làm thuyền bát nhã, làm ruộng phước phì nhiêu, làm hải đăng và bến đổ cho khắp cả mọi kiếp thuyền đời trở thành những thiện hữu Bồ Ðề kết duyên cùng Phật đạo Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Khắp nguyện mười phương bạn lành gần xa mở rộng lòng ra phát tâm Bồ Ðề thọ trì và ấn tống kinh Pháp Hoa này để tạo cơ hội sớm ngộ nhập tri kiến Phật, ngõ hầu thăng hoa đời sống đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Phật lịch 2530, Vía Phật A Di Ðà - 1986 Bính Dần

Thích Ðức Niệm

Nghi-Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh

(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám-hối, sám-hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh)

Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Chư Phật. (1 lạy)

Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Tôn Pháp. (1 lạy)

Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt-thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)

 

(Quì, tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)

Nguyện mây hương mầu này

Khắp cùng mười phương cõi

Cúng-dường tất cả Phật.

Tôn Pháp, các Bồ-Tát,

Vô biên chúng Thanh-văn

Và cả thảy Thánh-hiền

Duyên khởi đài sáng chói

Trùm đến vô biên cõi,

Khắp xông các chúng-sanh

Ðều phát lòng Bồ-đề,

Xa lìa những nghiệp vọng

Trọn nên đạo vô-thượng.

(cầm hương lạy 1 lạy)

 

(Ðứng chắp tay xướng)

Sắc thân Như-Lai đẹp

Trong đời không ai bằng

Không sánh, chẳng nghĩ bàn

Nên nay con đảnh lễ

Sắc thân Phật vô-tận

Trí-tuệ Phật cũng thế,

Tất cả Pháp thường-trụ

Cho nên con về nương,

Sức trí lớn nguyện lớn

Khắp độ chúng quần-sanh,

Khiến bỏ thân nóng khổ

Sanh kia nước mát vui.

Con nay sạch ba nghiệp

Qui-y và lễ tán

Nguyện cùng các chúng-sanh

Ðồng sanh nước An-Lạc.

Án phạ nhựt ra vật. (7 lần)

Chí Tâm Ðảnh Lễ

(Câu này thông cả 9 câu dưới, đều xướng ở đầu câu)

Thường-tịch-quang tịnh độ

A-Di-Ðà Như-Lai

Pháp-thân mầu thanh-tịnh

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Thật báo trang nghiêm độ

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân tướng hải vi-trần

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Phương-tiện thánh cư độ

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân trang-nghiêm giải-thoát

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương Tây

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân căn giới đại-thừa

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương Tây

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân hóa đến mười phương

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Giáo hạnh lý ba kinh

Tột nói bày y chánh

Khắp pháp-giới Tôn Pháp (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Quán-thế-Âm Bồ-tát

Thân tử-kim muôn ức

Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Ðại Thế-Chí Bồ-tát

Thân trí sáng vô-biên

Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Thanh-tịnh đại-hải-chúng

Thân hai nghiêm: Phước, trí

Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)

( Ðứng chắp tay nguyện: )

' Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh ' Trong pháp-giới, đều nguyện

dứt trừ ba chướng(1)' nên qui mạng (2) sám-hối(3)'

(1 lạy quỳ chắp tay sám hối)

Chí Tâm Sám Hối:

Ðệ tử... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không kể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.

Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chằng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6) trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. - Kinh rằng: 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh, vì thế trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà pháp lồ (7) sám hối làm cho đệ tử và pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.

Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-Ðộ khắp với chúng-sinh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.

Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn-lành của đệ tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật-đạo.

Ðệ-tử sám-hối phát nguyện rồi qui mạng đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-Bảo (1 lạy)

( lạy xong tiếp Nghi Thức tụng kinh )

 

Thích Nghĩa Sám Pháp

(1) Phiền não, nghiệp nhân, quả báo ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: 'Ba món

chướng.'

(2) Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng chính là nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.

(3) Nói đủ là Sám-ma hối quá. 'Sám ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá', tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.

(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: sáu căn, và ba nghiệp: thân, khẩu, ý.

(5) Giết cha, giết mẹ, giết thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội

Nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.

(6) A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ quỉ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.

(7) Bày lộ tội lỗi ra trước Chúng-Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).

 

Nghi Thức Trì Tụng

Bài Tán Lư Hương

Lò hương vừa nhen nhúm

Pháp-giới đã được xông

Các Phật trong hải hội đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Các Phật hiện toàn thân.

Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát Ma-ha-tát (3lần)

 

Chân Ngôn Tịnh Pháp Giới

Án lam ( 7 lần )

( Trì chú này thì thân tâm, cảnh vật đều thanh tịnh )

Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp

Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta bà ha. (7 lần)

( Trì chú này thì hơi miệng trong sạch )

Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạt thuật độ hám (3 lần)

(Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng-dường cả mười phương)

 

Văn Phát Nguyện

Nam-mô Thập-phương Thường-trụ Tam-bảo (3 lần)

Cúi lạy đấng Tam-giới Tôn,

Qui mạng cùng mười phương Phật

Tôi nay phát nguyện rộng

Thọ-trì kinh Pháp-Hoa

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam đồ ( súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục )

Nếu có kẻ thấy nghe

Ðều phát lòng Bồ-đề

Hết một báo-thân này

Sanh qua cõi Cực-Lạc.

Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)

 

Bài Khai Kinh

Pháp vi-diệu rất sâu vô-lượng

Trăn nghìn muôn ức khó gặp

Tôi nay nghe thấy được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như-Lai.

 

Bài Khen Ngợi Kinh

Hơn sáu muôn lời, thành bảy cuốn

Rộng chứa đựng vô-biên nghĩa mầu

Trong cổ nước cam-lộ rịn nhuần

Trong miệng chất đề-hồ nhỏ mát

Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi

Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang

Dầu cho tạo tội hơn núi cả

Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng.

Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát. ( 3 lần )

 

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,

Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Dịch từ Hán văn sang tiếng Việt

 

Quyển thứ Nhất

1. Tự phẩm

2. Phương Tiện Phẩm

 

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Phẩm 'Tựa' Thứ Nhất

 

1.- Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu-hội. Các vị đó đều là bực A-La-Hán, các lậu (3) đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong (4) dứt sự ràng rịt trong các cõi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha-Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Ðề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nâu-Lâu-Ðà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm, Ba-Ðề, Ly-Bà-Ða Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Ðà Tôn-Ðà-La Nan-Ðà, Phú-Lâu-Na Di-Ða-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Ðề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-La-Hán hàng tri-thức của chúng.

Lại có bực hữu-học và vô-học (6) hai nghìn người.

Bà Tỷ-khiêu-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Ðề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỷ-khiêu-ni Gia-Du-Ðà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.

 

2.- Bực đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô thượng chính-đẳng chính-giác (7), đều chứng được pháp đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng-dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức.

Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí-tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10), danh đồn khắp vô-lượng thế-giới có thể độ vô số trăm nghìn chúng-sanh.

Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát. Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðắc-Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-tát, Bất-Hưu Tức Bồ-tát, Bửu-Chưởng Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dõng-thí Bồ-tát. Bửu-Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Mãn-Nguyệt Bồ-tát, Ðại-Lực Bồ-tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-tát, Việt-Tam-Giới Bồ-tát, Bạt-Ðà Bà-La Bồ-tát, Di-Lặc Bồ-tát, Bửu-Tích Bồ-tát, Ðạo-Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội.

3.- Lúc bấy giờ, Thích-Ðề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên-tử câu hội.

Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một muôn thiên-tử câu hội.

Tự-tại Thiên-tử, đại tự-tại Thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn Thiên-tử câu hội.

Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Ðại-Phạm, Quang-Minh Ðại-Phạm v.v...cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên-tử câu hội.

Có tám vị Long-Vương: Nan-Ðà Long-Vương, Bạt-Nan-Ðà Long-Vương, Sa-Dà-La Long-Vương, Hòa-Tu-Cát Long-Vương, Ðức-Xoa-Ca Long-Vương, A Na-Bà-Ðạt-Ða Long-Vương, Ma-Na-Tư Long-Vương, Ưu-Bát-La Long-Vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Ðại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.

Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương. Nhạc-âm Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.

Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-Trĩ A-tu-la vương, Dà-La-Khiên-Ðà A-tu-la vương, Tỳ-Ma-Chất-Ða-La A-tu-la vương, La-Hầu A-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.

Có bốn vị Ca-lâu-la vương: Ðại-Uy-Ðức Ca-lâu-la vương, Ðại-Thân Ca-lâu-la vương, Ðại-Mãn Ca-lâu-la vương, Như-Ý Ca-lâu-la vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.

Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Ðề-Hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.

4.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ-chúng vây quanh cúng-dàng cung kính ngợi-khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh đại-thừa tên là: 'Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật sở hộ-niệm'.

Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chính-định 'Vô-lượng nghĩa xứ', thân và tâm của Phật đều không lay động.

Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động (12).

Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-khiêu, Tỳ-khiêu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13), A-tu-la (14), Ca-lâu-la (15), Khẩn-na-la (16), Ma-hầu-la-dà (17), nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân thánh vương, các đại-chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.

5.- Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, dưới thời chiếu đến địa-ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-Cứu-Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18), ở các cõi kia.

Lại thấy các đức Phật hiện-tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.

Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhơn-duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.

6.- Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-tát nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này'.

Nay đức Phật đương nhập chính-định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?'

Ngài lại nghĩ: 'Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dàng vô-lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi-hữu này, ta nay nên hỏi ông'.

Lúc đó, hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng: 'Tướng thần-thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?'

7.- Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời rồng quỉ thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, đều thấy cõi nước trang-nghiêm của các đức Phật?'

Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:

 

8.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Ðức Ðạo-Sư cớ chi

Lông trắng giữa chặn mày

Phóng ánh-sáng khắp soi?

Trời mưa hoa Mạn-đà

Cùng hoa Mạn-thù-Sa,

Gió thơm mùi chiên-đàn

Vui đẹp lòng đại chúng

Vì nhơn duyên như vậy

Cõi đất đều nghiêm tịnh

Mà trong thế giới này

Sáu điệu vang động lên

Bấy giờ bốn bộ chúng

Thảy đều rất vui mừng

Thân cùng ý thơ thới

Ðược việc chưa từng có.

9.- Ánh sáng giữa chặn mày

Soi suốt thẳng phương Ðông

Một muôn tám nghìn cõi

Ðều ánh như sắc vàng.

Từ địa ngục A-Tỳ

Trên đến trời hữu đảnh

Trong các thế giới đó

Cả sáu đạo chúng sanh

Sống chết của kia đến

Nghiệp duyên lành cùng dữ

Thụ báo có tốt xấu

Tại đây đều thấy rõ.

 

10.- Lại thấy các đức Phật

Ðấng Thánh-Chúa Sư-Tử

Diễn nói các kinh điển

Nhiệm mầu bực thứ nhất.

Tiếng của ngài thanh-tịnh

Giọng nói ra êm dịu

Dạy bảo các Bồ-tát

Vô-số ức muôn người

Tiếng phạm-âm thâm diệu

Khiến người đều ưa nghe.

Các Phật ở cõi mình

Mà giảng nói chính pháp

Dùng nhiều món nhơn-duyên

Cùng vô-lượng tỉ-dụ

Ðể soi rõ Phật Pháp

Mà khai ngộ chúng sanh.

Nếu có người bị khổ

Nhàm lìa già, bệnh, chết,

Phật vì nói Niết-Bàn

Ðể dứt các ngằn khổ

Nếu là người có phước

Ðã từng cúng-dàng Phật

Chí cầu pháp thù-thắng

Vì nói hạnh Duyên-Giác

Nếu lại có Phật-tử

Tu-tập các công hạnh

Ðể cầu tuệ vô thượng

Phật vì nói tịnh-đạo.

 

11.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Tôi ở tại nơi đây

Thấy nghe dường ấy đó

Và nghìn ức việc khác

Thấy rất nhiều như thế

Nay sẽ lược nói ra:

 

12.- Tôi thấy ở cõi kia

Có hằng-sa Bồ-tát

Dùng các món nhơn-duyên

Mà cầu chứng Phật đạo.

Hoặc có vị bố-thí

Vàng, bạc, ngọc, san-hô,

Chơn châu, ngọc như-ý,

Ngọc xa-cừ mã-não,

Kim-cương các trân-bửu

Cùng tôi tớ, xe cộ

Kiệu, cán chưng châu báu

Vui-vẻ đem bố-thí

Hồi-hướng về Phật-đạo

Nguyện được chứng thừa ấy

Bực nhất của ba cõi

Các Phật hằng khen ngợi.

Hoặc có vị Bồ-tát

Xe tứ-mã xe báu

Bao lơn che tàn đẹp

Trau-tria dùng bố-thí.

Lại thấy có Bồ-tát

Bố-thí cả vợ con

Thân thịt cùng tay chân

Ðể cầu vô-thượng đạo.

Lại thấy có Bồ-tát

Ðầu, mắt và thân thể

Ðều ưa vui thí cho

Ðể cầu trí-tuệ Phật

 

13.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Ta thấy các quốc-vương

Qua đến chỗ của Phật

Thưa hỏi đạo vô-thượng

Bèn bỏ nước vui vẻ

Cung-điện cả thần-thiếp

Cạo sạch râu lẫn tóc

Mà mặc y Pháp phục.

Hoặc lại thấy Bồ-tát

Mà hiện làm Tỷ-khiêu

Một mình ở vắng vẻ

Ưa vui tụng kinh điển

Cũng thấy có Bồ-tát

Dõng mãnh và tinh tấn

Vào ở nơi thâm sơn

Suy xét mối Phật-đạo

Và thấy bực ly-dục

Thường ở chỗ không nhàn

Sâu tu các thuyền-định

Ðược năm món thần thông

Và thấy vị Bồ-tát

Chắp tay trụ thuyền-định

Dùng nghìn muôn bài kệ

Khen ngợi các Pháp-Vương

Lại thấy có Bồ-tát

Trí sâu chí bền chắc

Hay hỏi các đức Phật

Nghe rồi đều thụ trì.

Lại thấy hàng Phật-tử

Ðịnh-tuệ trọn đầy đủ

Dùng vô-lượng tỉ-dụ

Vì chúng mà giảng pháp

Vui ưa nói các pháp

Dạy bảo các Bồ-tát

Phá dẹp chúng binh ma

Mà đánh rền trống pháp

Cùng thấy vị Bồ-tát

Vắng bặt yên lặng ngồi

Trời, rồng đều cung-kính

Chẳng lấy đó làm mừng,

Và thấy có Bồ-tát

Ở rừng phóng hào-quang

Cứu khổ chốn Ðịa-ngục

Khiến đều vào Phật-đạo.

Lại thấy hàng Phật-tử

Chưa từng có ngủ nghỉ

Kinh-hành ở trong rừng

Siêng năng cầu Phật-đạo

Cũng thấy đủ giới-đức

Uy-nghi không thiếu sót

Lòng sạch như bửu-châu

Ðể cầu chứng Phật-Ðạo.

Và thấy hàng Phật-tử

Trụ vào sức nhẫn nhục

Bị kẻ Tăng-thượng-mạn

Mắng rủa cùng đánh đập

Thảy đều hay nhẫn được

Ðể cầu chứng Phật-đạo

Lại thấy có Bồ-tát

Xa rời sự chơi cười

Và quyến-thuộc ngu si

Ưa gần-gũi người trí

Chuyên tâm trừ loạn động

Nhiếp niệm ở núi rừng

Trải ức nghìn muôn năm

Ðể cầu được Phật-đạo.

14.- Lại thấy vị Bồ-tát

Ðồ ăn uống ngọt ngon

Cùng trăm món thuốc thang

Ðem cúng Phật và Tăng,

Áo tốt đồ thượng-phục

Giá đáng đến nghìn muôn

Hoặc là vô-giá y

Dùng nghìn muôn ức thứ

Nhà báu bằng Chiên-đàn

Các giường nằm tốt đẹp

Ðể cúng Phật cùng Tăng

Rừng vườn rất thanh-tịnh

Bông trái đều sum-sê

Suối chảy cùng ao tắm

Cúng cho Phật và Tăng,

Cúng thí như thế đó

Các đồ cúng tốt đẹp

Vui vẻ không hề nhàm

Ðể cầu đạo vô-thượng.

15.- Lại có vị Bồ-tát

Giảng nói pháp tịch-diệt

Dùng các lời dạy dỗ

Dạy vô-số chúng-sanh

Hoặc thấy vị Bồ-tát

Quán sát các pháp tịnh

Ðều không có hai tướng

Cũng như khoảng hư không

Lại thấy hàng Phật-tử

Tâm không chỗ mê đắm

Dùng món diệu-tuệ này

Mà cầu đạo vô-thượng.

16.- Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Lại có vị Bồ-tát

Sau khi Phật diệt-độ

Cúng dàng Xá-Lợi-Phật.

Lại thấy hàng Phật-tử

Xây dựng các tháp miếu

Nhiều vô-số hằng-sa

Nghiêm sức khắp cõi nước.

Bửu tháp rất cao đẹp

Ðều năm nghìn do-tuần.

Bề ngang rộng xứng nhau

Ðều hai nghìn do-tuần.

Trong mỗi mỗi tháp miếu

Ðều có nghìn tràng phan

Màn châu xen thả xuống

Tiếng linh báu hòa reo

Các vị Trời, rồng, thần,

Người cùng với phi-nhơn

Hương, hoa, cùng kỹ-nhạc

Thường đem đến cúng-dàng

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Các hàng Phật-tử kia

Vì cúng-dàng xá-lợi

Nên trang-sức tháp miếu,

Cõi quốc-giới tự-nhiên

Thù đặc rất tốt-đẹp

Như cây Thiên-thụ-vương

Hoa kia đang xòe nở

17.- Phật phóng một luồng sáng

Ta cùng cả chúng-hội

Thấy nơi cõi nước này

Các thứ rất tốt đẹp

Thần-lực của chư Phật

Trí-tuệ đều hi-hữu

Phóng một luồng tịnh-quang

Soi khắp vô-lượng cõi

Chúng ta thấy việc này

Ðược điều chưa từng có.

18.- Xin Phật-tử Văn-Thù

Giải-quyết lòng chúng nghi

Bốn chúng đều mong ngóng

Nhìn ngài và nhìn ta

Ðức Thế-Tôn cớ chi

Phóng ánh quang-minh này?

Phật-tử phải thời đáp

Quyết nghi cho chúng mừng

Có những lợi ích gì

Ðức Phật phóng quang này?

Khi Phật ngồi đạo-tràng

Chứng được pháp thâm-diệu

Vì muốn nói Pháp đó

Hay là sẽ thọ-ký?

Hiện bày các cõi Phật

Các báu sạch trang-nghiêm

Cùng thấy các đức Phật

Ðây không phải cớ nhỏ

Ngài Văn-Thù nên biết

Bốn-chúng và Long, Thần

Nhìn xem xét ngài đó

Mong sẽ nói những gì?

19.- Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Ðại Bồ-tát cùng các vị Ðại-Sĩ: 'Các Thiện-nam-tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Thế-Tôn muốn nói Pháp lớn, mưa pháp-vũ lớn, thổi pháp-loa lớn, đánh pháp-cổ lớn và diễn pháp-nghĩa lớn.

Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá-khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào-quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào-quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào-quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng-sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.

20.- Các thiện-nam-tử! Như vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh Như-Lai, Ứng-Cúng, Chính-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-Thượng-Sĩ, Ðiều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhơn-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chính pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất xâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm-hạnh thanh bạch.

Phật, vì người cầu đạo Thanh-Văn, nói pháp tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-Giác, nói pháp mười hai nhơn duyên (23), Vì hàng Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả Vô-thượng chính-đẳng chính-giác thành bậc nhất-thiết chủng-trí.(25)

Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Ðọa.

Di-Lặc nên biết! Ðức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.

Ðức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.

Tám vị vương tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ (26) . Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm đại thừa, thường tu hạnh thanh-tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.

21.- Ðức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh lúc đó nói kinh đại thừa tên 'Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'. Nói kinh đó rồi Phật liền ở trong đại-chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh giới chánh-định 'Vô-Lượng nghĩa-xứ', thân và tâm chẳng động.

22.- Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động.

Lúc đó trong hội, hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự nam, Cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.

23.- Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh-sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây.

Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh-sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này.

Khi ấy, có vị Bồ-tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.

24.- Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh từ trong chính-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-tát nói kinh đại-thừa tên 'Diệu-Pháp-Liên-Hoa Giáo-Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm', trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.

25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.

26.- Ðức Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng ma, phạm sa-môn, bà-la-môn, và trời, người, a-tu-la mà tuyên rằng: 'Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn'.

Khi đó có vị Bồ-tát, tên Ðức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh liền thọ-ký (12) cho, bảo các Tỷ-khiêu rằng 'Ông Ðức-Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, Chính-đẳng Chính-giác'.

Ðức Phật thọ-ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.

27.- Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-tát trì kinh 'Diệu-Pháp Liên-Hoa' trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.

28.- Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chính-dẳng Chính-giác. Các vị Vương-tử đó cúng-dàng vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt ráo sau hết, hiệu là Nhiên-Ðăng.

29.- Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân-duyên căn lành nên được gặp vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng-dàng cung-kính tôn trọng khen ngợi.

30.- Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đây. Còn Cầu-Danh Bồ-tát là ngài đấy.

Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh đại-thừa tên: 'Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'.

Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

31.- Ta nhớ thuở quá-khứ

Vô-lượng vô-số kiếp

Có Phật Nhơn Trung-tôn

Hiệu Nhật-Nguyệt Ðăng-Minh

Ðức Thế-Tôn nói pháp

Ðộ vô-lượng chúng-sanh

Vô số ức Bồ-tát

Khiến vào trí-tuệ Phật.

32.- Khi Phật chưa xuất-gia

có sanh tám vương-tử

Thấy Ðại-Thánh xuất-gia

Cũng theo tu phạm-hạnh

33.- Phật nói kinh Ðại-Thừa

Tên là 'Vô-Lượng-Nghĩa'

Ở trong hàng đại-chúng

Mà vì rộng tỏ bày.

Phật nói kinh ấy rồi

Liền ở trong pháp-tòa

Xếp bằng nhập chính-định

Tên 'Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ'

Trời rưới hoa Mạn-đà

Trống trời tự-nhiên vang

Các Trời, rồng, quỉ, thần

Cúng-dàng đấng Nhơn-Tôn,

Tất cả các cõi Phật

Tức thời vang động lớn,

34.- Phật phóng sáng giữa mày

Hiện các việc hi-hữu

Ánh-sáng chiếu phương-đông

Muôn tám nghìn cõi Phật

Bày sanh-tử nghiệp báo

Của tất cả chúng-sanh

Lại thấy các cõi Phật

Dùng các báu trang-nghiêm

Màu lưu-ly pha-lê

Ðây bởi Phật-quang soi.

35.- Lại thấy những Trời, người

Rồng, thần, chúng Dạ-Xoa

Càn-thát, Khẩn-na-la

Ðều cúng-dàng Phật mình

 

36.- Lại thấy các Như-Lai

Tự-nhiên thành Phật-đạo,

Màu thân như núi vàng

Ðoan nghiêm rất đẹp mầu

Như trong lưu-ly sạch

Hiện ra tượng chơn kim

Thế-Tôn trong đại-chúng

Dạy nói nghĩa thâm diệu.

37.- Mỗi mỗi các cõi Phật

Chúng Thanh-Văn vô-số,

Nhơn Phật-quang soi sáng

Ðều thấy đại-chúng kia.

Hoặc có các Tỷ-khiêu

Ở tại trong núi rừng

Tinh-tấn giữ tịnh-giới

Dường như gìn châu sáng

 

38.- Lại thấy các Bồ-tát

Bố-thí nhẫn-nhục thảy

Số đông như hằng-sa (28)

Ðây bởi sáng Phật soi.

Lại thấy hàng Bồ-tát

Sâu vào các thuyền-định

Thân tâm lặng chẳng động

Ðể cầu đạo vô-thượng.

Lại thấy các Bồ-tát

Rõ tướng pháp tịch-diệt

Ðều ở tại nước mình

Nói pháp cầu Phật-đạo.

39.- Bấy giờ bốn bộ chúng

Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Ðăng

Hiện sức thần-thông lớn

Tâm kia đều vui mừng

Mỗi người tự hỏi nhau

Việc này nhơn-duyên gì?

40.- Ðấng của Trời người thờ

Vừa từ chính-định dậy

Khen Diệu-Quang Bồ-tát

Ông là mắt của đời

Mọi người đều tin về

Hay vưng giữ tạng pháp

Như pháp của ta nói

Chỉ ông chứng biết được

Ðức Phật đã ngợi khen

Cho Diệu-Quang vui mừng

Liền nói kinh Pháp-Hoa

Trải sáu mươi tiểu kiếp

Chẳng rời chỗ ngồi ấy

Ngài Diệu-Quang Pháp-sư

Trọn đều hay thụ-trì

Pháp thượng diệu của Phật.

41.- Phật nói kinh Pháp-Hoa

Cho chúng vui mừng rồi

Liền chính trong ngày đó

Bảo hàng chúng trời, người

Các pháp 'nghĩa thật tướng'

Ðã vì các ông nói

Nay ta giữa đêm này

Sẽ vào cõi Niết-Bàn

Phải một lòng tinh-tấn

Rời các sự buông-lung

Các Phật rất khó gặp

Ức kiếp được một lần

42.- Các con của Phật thảy

Nghe Phật sắp nhập-diệt

Thảy đều lòng buồn khổ

Phật sao gấp diệt vậy?

Ðấng Thánh-Chúa-Pháp-Vương

An ủi vô-lượng chúng:

Nếu lúc ta diệt độ

Các ông chớ lo sợ

Ðức-Tạng Bồ-tát đây

Tâm đã được thông thấu

Nơi vô-lậu thiệt-tướng

Kế đây sẽ thành Phật

Tên hiệu là Tịnh-Thân

Cũng độ vô-lượng chúng.

43.- Ðêm đó Phật diệt độ

Như củi hết, lửa tắt

Chia phân các xá-lợi

Mà xây vô-lượng tháp

Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni

Số đông như hằng-sa

Lại càng thêm tinh-tấn

Ðể cầu đạo vô-thượng

44.- Diệu-Quang pháp-sư ấy

Vưng giữ Phật pháp-tạng

Trong tám mươi tiểu-kiếp.

Rộng nói kinh Pháp-Hoa.

Tám vị vương-tử đó

Ðược Diệu-Quang dạy bảo

Vững bền đạo Vô-thượng

Sẽ thấy vô-số Phật

Cúng-dàng các Phật xong

Thuận theo tu đại đạo

Nối nhau đặng thành Phật

Chuyển thứ thọ-ký nhau,

Ðấng Phật rốt sau cả

Hiệu là: Phật Nhiên-Ðăng

Ðạo-sư (29) của thiên tiên

Ðộ thoát vô-lượng chúng.

45.- Diệu-Quang pháp-sư đó

Có một người đệ-tử

Tâm thường cưu biếng trễ

Tham ưa nơi danh lợi

Cầu danh lợi không nhàm

Thường đến nhà sang giàu

Rời bỏ việc tụng học

Bỏ quên không thông thuộc

Vì bởi nhân-duyên ấy

Nên gọi là Cầu-Danh

Cũng tu các nghiệp lành

Ðược thấy vô-số Phật

Thuận tu theo đại đạo

Ðủ sáu ba-la-mật

Nay gặp đấng Thích-Ca

Sau đây sẽ thành Phật

Hiệu rằng: 'Phật Di-Lặc

Rộng độ hàng chúng-sanh

Số đông đến vô-lượng.

46.- Sau Phật kia diệt độ

Lười-biếng đó là ngài

Còn Diệu-Quang Pháp-sư

Nay thời chính là ta.

Ta thấy Phật Ðăng-Minh

Ðiềm sáng trước như thế

Cho nên biết rằng nay

Phật muốn nói 'Pháp-Hoa'

Tướng nay như điềm xưa.

Là phương-tiện của Phật

Nay Phật phóng ánh-sáng

Giúp bày nghĩa thiệt-tướng

Các người nay nên biết

Chắp tay một lòng chờ

Phật sẽ rưới nước pháp

Ðầy đủ người cầu đạo

Các người cầu ba thừa (30)

Nếu có chỗ nghi-hối

Phật sẽ dứt trừ cho

Khiến hết không còn thừa.

 

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Phẩm 'Phương Tiện' Thứ Hai

 

1.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chính định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trí-tuệ của các đức Phật rất sâu vô-lượng, môn trí-tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-Chi-Phật đều không biết được. Vì sao?

Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô-số các đức Phật, trọn tu vô-lượng đạo-pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh-tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.

Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhơn-duyên, các món thí-dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương-tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Ðức Như-Lai đã đầy-đủ phương-tiện, tri-kiến và ba-la-mật.

Xá-Lợi-Phất! Tri-kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô-lượng vô-ngại lực, vô sở-úy, thuyền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời-lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.

Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô-lượng vô-biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

2.- Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chơn-thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhơn như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt-ráo như vậy.

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:

3.- Ðấng Thế-Hùng khó lường

Các trời cùng người đời

Tất cả loài chúng-sanh

Không ai hiểu được Phật

Trí-lực, vô-sở-úy

Giải-thoát các tam-muội

Các pháp khác của Phật

Không ai so lường được

Vốn từ vô-số Phật

Ðầy đủ tu các đạo

Pháp nhiệm mầu rất sâu

Khó thấy khó rõ được

Trong vô-lượng ức kiếp

Tu các đạo đó rồi

Ðạo tràng được chứng quả

Ta đều đã thấy biết

Quả-báo lớn như vậy

Các món tính tướng nghĩa

Ta cùng mười phương Phật

Mới biết được việc đó

 

4.- Pháp đó không chỉ được

Vắng bặt tướng nói năng

Các loài chúng sinh khác

Không có ai hiểu được

Trừ các chúng Bồ-tát

Người sức tin bền chặt

Các hàng đệ-tử Phật

Từng cúng-dàng các Phật

Tất cả lậu đã hết

Trụ thân rốt sau này

Các hạng người vậy thảy

Sức họ không kham được,

Giả-sử đầy thế-gian

Ðều như Xá-Lợi-Phất

Cùng suy chung so lường

Chẳng lường được Phật-trí

Chính sử khắp mười phương

Ðều như Xá-Lợi-Phất

Và các đệ-tử khác

Cũng đầy mười phương cõi

Cùng suy chung so lường

Cũng lại chẳng biết được.

Bậc Duyên-giác trí lành

Vô-lậu thân rốt sau

Cũng đầy mười phương cõi

Số đông như rừng tre,

Hạng này chung một lòng

Trong vô-lượng ức kiếp

Muốn xét Phật thật trí

Chẳng biết được chút phần.

Bồ-tát mới phát tâm

Cúng-dàng vô-số Phật

Rõ thấu các nghĩa thú

Lại hay khéo nói pháp

Như lúa, mè, tre, lau

Ðông đầy mười phương cõi

Một lòng dùng trí mầu

Trải số kiếp hằng-sa

Thảy đều chung suy lường

Chẳng biết được trí Phật

Hàng Bất-thối Bồ-tát

Số đông như hằng-sa

Một lòng chung suy cầu

Cũng lại chẳng hiểu được.

5.- Lại bảo Xá-Lợi-Phất

Pháp nhiệm-mầu rất sâu

Vô-lậu khó nghĩ bàn

Nay ta đã được đủ

Chỉ ta biết tướng đó

Mười phương Phật cũng vậy,

Xá-Lợi-Phất phải biết

Lời Phật nói không khác

Với Pháp của Phật nói

Nên sinh sức tin chắc

Pháp của Phật lâu sau

Cần phải nói chơn thật

Bảo các chúng Thanh-văn

Cùng người cầu Duyên-giác

Ta khiến cho thoát khổ

Ðến chứng được Niết-Bàn

Phật dùng sức phương-tiện

Dạy cho ba-thừa-giáo

Chúng-sinh nơi nơi chấp

Dắt đó khiến ra khỏi.

6.- Khi đó trong đại-chúng có hàng Thanh-văn lậu-tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam cùng Cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân-cần ngợi-khen phương-tiện mà nói thế này: 'Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được.'

Ðức Phật nói một nghĩa giải-thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?

7.- Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn-chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Nhơn gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật?

Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn-chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen-ngợi pháp nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu?

Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8.- Ðấng Huệ-Nhật Ðại-Thánh

Lâu mới nói pháp này,

Tự nói pháp mình chứng

Lực, vô-úy, tam-muội,

Thuyền-định, giải-thoát thảy

Ðều chẳng nghĩ bàn được.

Pháp chứng nơi đạo-tràng

Không ai hỏi đến được,

Ý con khó lường được

Cũng không ai hay hỏi.

Không hỏi mà tự nói

Khen-ngợi đạo mình làm

Các đức Phật chứng được

Trí-tuệ rất nhiệm-mầu.

Hàng vô-lậu La-Hán

Cùng người cầu Niết-bàn

Nay đều sa lưới nghi

Phật cớ chi nói thế?

Hạng người cầu Duyên-Giác.

Tỷ-Khiêu, Tỷ-Khiêu-ni,

Các trời, rồng, quỉ, thần

Và Càn-thát-bà thảy

Ngó nhau cưu lòng nghi

Nhìn trông đấng Túc-Tôn,

Việc đó là thế nào

Xin Phật vị dạy cho?

Trong các chúng Thanh-Văn

Phật nói con hạng nhất

Nay con nơi trí mình

Nghi lầm không rõ được

Vì là pháp rốt-ráo

Vì là đạo Phật làm

Con từ miệng Phật sanh

Chắp tay nhìn trông chờ

Xin ban tiếng nhiệm-mầu

Liền vì nói như thực

Các trời, rồng, thần thảy

Số đông như hằng-sa

Bồ-tát cầu thành Phật

Số nhiều có tám muôn

Lại những muôn ức nước

Vua Chuyển-Luân-Vương đến

Ðều lòng kính chắp tay

Muốn nghe đạo đầy-đủ.

9.- Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ.'

10.- Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao?

Trong hội đây có vô-số trăm nghìn muôn ức A-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí-tuệ sáng-suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin'.

Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Ðấng Pháp-Vương vô-thượng

Xin nói chuyện đừng lo

Vô-lượng chúng hội đây

Có người hay kính tin.

11.- Ðức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất: 'Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, a-tu-la đều sẽ kinh nghi Tỷ-khiêu Tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.'

Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:

Thôi thôi! Chẳng nên nói

Pháp ta diệu khó nghĩ

Những kẻ tăng-thượng-mạn

Nghe ắt không kính tin.

12.- Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Ðời đời đã từng theo Phật học-hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an-ổn nhiều điều lợi-ích.

Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Ðấng Vô-thượng-lưỡng-túc

Xin nói pháp đệ-nhất

Con là trưởng-tử Phật

Xin thương phân-biệt nói.

Vô-lượng chúng-hội đây

Hay kính tin pháp này

Ðời đời Phật đã từng

Giáo-hóa chúng như thế

Ðều một lòng chắp tay

Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.

Chúng con nghìn hai trăm

Cùng hạng cầu Phật nọ

Nguyện Phật vì chúng này

Cúi xin phân-biệt nói

Chúng đây nghe pháp ấy

Thời sinh lòng vui-mừng.

13.- Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Ông đã ân-cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân-biệt giải-nói.'

14.- Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Ðức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.

15.- Bấy giờ, Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói.'

Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe'.

16.- Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh-thoại đến thời-tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.

17.- Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời-nghi nói pháp ý-thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên, lời lẽ thí-dụ diễn nói các pháp.

Pháp đó không phải là suy-lường phân-biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng-sinh khai tri-kiến-Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri-kiến-Phật cho chúng-sinh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh chứng vào đạo tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất! Ðó là các đức Phật do vì một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời'.

18.- Ðức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: 'Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem tri-kiến-Phật chỉ cho chúng-sinh tỏ ngộ thôi.'

Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai chỉ dùng một Phật-Thừa mà vì chúng-sinh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.

Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.

Xá-Lợi-Phất! Thuở quá-khứ các đức Phật dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời-lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật-thừa, nên các chúng-sinh đó theo chư Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí.'

Xá-Lợi-Phất! Thuở vị-lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật-thừa nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.

Xá-Lợi-Phất! Hiện-tại nay, trong vô-lượng trăm nghìn muôn-ức cõi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi-ích an-vui cho chúng-sinh. Các đức Phật đó cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật-thừa, các chúng-sinh ấy theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo-hóa Bồ-tát, vì muốn đem tri-kiến-Phật mà chỉ cho chúng-sinh, vì muốn đem tri-kiến-Phật cho chúng-sinh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng-sinh chứng vào tri-kiến-Phật vậy.

Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng-sinh có những điều ưa-muốn, thân-tâm mê-chấp, ta tùy theo bản-tính kia dùng các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ cùng sức phương-tiện mà vì đó nói pháp.

Xá-Lợi-Phất! Như thế đều vì để chứng được một Phật-thừa 'nhất-thiết chủng-trí.'

20.- Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà-huống có ba!

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền-não trược, chúng-sinh trược, kiến trược, mệnh trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng-sinh nhơ nặng, bỏn-sẻn, tham-lam, ghét-ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương-tiện, nơi một Phật-thừa, phân-biệt nói thành ba.

21.- Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ-tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, người này chẳng phải là đệ-tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.

Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỷ-Khiêu, Tỷ-khiêu-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt-ráo Niết-Bàn, bèn chẳng lại chí-quyết cầu đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỷ-khiêu thực chứng-quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện-tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ-trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.

Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ-trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư-vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật-thừa thôi.

Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

22.- Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni

Cựu lòng tăng-thượng-mạng

Cận-sự-nam ngã-mạn

Cận-sự-nữ chẳng tin,

Hàng bốn-chúng như thế

Số kia có năm nghìn

Chẳng tự thấy lỗi mình

Nơi giới có thiếu-sót

Tiếc giữ tội quấy mình

Trí nhỏ đó đã ra,

Bọn cám tấm trong chúng

Uy-đức Phật phải đi,

Gã đó kém phước-đức

Chẳng kham lãnh pháp này,

Chúng nay không cành lá

Chỉ có những hột chắc

23.- Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

Pháp của các Phật được

Vô-lượng sức phương-tiện

Mà vì chúng-sinh nói.

Tâm của chúng-sinh nghĩ

Các món đạo ra làm

Bao nhiêu những tánh dục

Nghiệp lành dữ đời trước

Phật biết hết thế rồi

Dùng các duyên thí-dụ

Lời-lẽ sức phương-tiện

Khiến tất cả vui-mừng.

Hoặc là nói thế-kinh

Cô-khởi cùng bổn-sự.

Bổn-sinh, vị-tằng-hữu

Cũng nói những nhân-duyên

Thí-dụ và Trùng-tụng

Luận-nghị cộng chín kinh.

Căn-độn ưa pháp nhỏ.

Tham-chấp nơi sinh-tử

Nơi vô-lượng đức Phật

Chẳng tu đạo sâu mầu

Bị các khổ-não loạn

Vì đó nói Niết-bàn.

Ta bày phương-tiện đó

Khiến đều vào tuệ Phật,

Chưa từng nói các ông

Sẽ được thành Phật-đạo

Sở-dĩ chưa từng nói

Vì giờ nói chưa đến,

Nay chính là đến giờ

Quyết định nói đại-thừa.

24.- Chín bộ pháp của ta

Thuận theo chúng-sanh nói

Vào đại-thừa làm gốc

Nên mới nói kinh này.

Có phật-tử tâm tịnh

Êm dịu cũng căn lợi,

Nơi vô-lượng các Phật

Mà tu đạo sâu mầu,

Vì hàng phật-tử này

Nói kinh đại-thừa đây.

Ta ghi cho người đó

Ðời sau thành Phật-đạo

Bởi thâm tâm niệm Phật

Tu trì tịnh-giới vậy

Hạng này nghe thành Phật

Rất mừng đầy khắp mình,

Phật biết tâm của kia.

Nên vì nói đại-thừa.

Thanh-Văn hoặc Bồ-tát,

Nghe ta nói pháp ra

Nhẫn đến một bài kệ

Ðều thành Phật không nghi.

25.- Trong cõi Phật mười phương

Chỉ có một thừa pháp

Không hai cũng không ba

Trừ Phật phương-tiện nói

Chỉ dùng danh tự giả

Dẫn dắt các chúng-sanh

Vì nói trí-tuệ Phật.

Các Phật ra nơi đời

Chỉ một việc này thực

Hai thứ chẳng phải chơn.

Trọn chẳng đem tiểu-thừa

Mà tế độ chúng-sinh,

Phật tự trụ đại-thừa

Như pháp của mình được

Ðịnh, huệ, lực trang-nghiêm

Dùng đây độ chúng-sanh.

Tự chứng đạo vô-thượng

Pháp bình-đẳng đại-thừa

Nếu dùng tiểu-thừa độ

Nhẫn đến nơi một người

Thời ta đọa sân tham

Việc ấy tất không được,

Nếu người tin về Phật

Như-Lai chẳng dối gạt

Cũng không lòng tham ghen

Dứt ác trong các pháp

Nên Phật ở mười phương

Mà riêng không chỗ sợ.

Ta dùng tướng trang-nghiêm

Ánh-sáng soi trong đời

Ðấng vô-lượng chúng trọng

Vì nói thực-tướng ấn

26.- Xá-Lợi-Phất! nên biết

Ta vốn lập thệ-nguyện

Muốn cho tất cả chúng

Bằng như ta không khác,

Như ta xưa đã nguyện

Nay đã đầy-đủ rồi

Ðộ tất cả chúng-sanh

Ðều khiến vào Phật-đạo

Nếu ta gặp chúng-sanh

Dùng Phật-đạo dạy cả

Kẻ vô-trí rối sai

Mê-lầm không nhận lời.

Ta rõ chúng-sanh đó

Chưa từng tu cội lành

Chấp chặt nơi ngũ-dục

Vì si-ái sinh khổ,

Bởi nhân-duyên các dục.

Sanh vào ba đường dữ

Xoay lăn trong sáu nẻo

Chịu đủ những khổ độc

Thân mọn thụ bào thai

Ðời đời tăng trưởng luôn

Người đức mỏng ít phước

Các sự khổ bức ngặt

Vào rừng rậm tà-kiến

Hoặc chấp có, chấp không

Nương gá các chấp này

Ðầy đủ sáu mươi hai

Chấp chặt pháp hư-vọng

Bền nhận không bỏ được

Ngã-mạn tự khoe cao

Dua-nịnh lòng không thực

Trong nghìn muôn ức kiếp

Chẳng nghe danh-tự Phật

Cũng chẳng nghe chính-pháp

Người như thế khó độ.

27.- Cho nên Xá-Lợi-Phất!

Ta vì bày phương-tiện

Nói các đạo dứt khổ

Chỉ cho đó Niết-Bàn

Ta dầu nói Niết-Bàn

Cũng chẳng phải thực-diệt,

Các pháp từ bản-lai

Tướng thường tự vắng-lặng

Phật-tử hành-đạo rồi

Ðời sau được thành Phật

Ta có sức phương tiện

Mở bày khắp ba-thừa.

Tất cả các Thế-Tôn

Ðều nói đạo nhất-thừa

Nay trong đại-chúng này

Ðều nên trừ nghi-lầm

Lời Phật nói không khác

Chỉ một, không hai thừa.

28.- Vô-số kiếp đã qua

Vô-lượng Phật diệt-độ

Trăm nghìn muôn ức Phật

Số nhiều không lường được.

Các Thế-Tôn như thế

Các món duyên thí-dụ

Vô-số ức phương-tiện

Diễn nói các pháp tướng,

Các đức Thế-Tôn đó

Ðều nói pháp nhất-thừa

Ðộ vô-lượng chúng-sanh

Khiến vào nơi Phật-đạo

Lại các đại-thánh-chúa

Biết tất cả thế-gian

Trời người loài quần-sanh

Thâm-tâm chỗ ưa-muốn

Bèn dùng phương-tiện khác

Giúp bày nghĩa đệ-nhất.

29.- Nếu có loài chúng-sinh

Gặp các Phật quá-khứ

Hoặc nghe pháp bố-thí

Hoặc trì-giới nhẫn-nhục

Tinh-tấn, thuyền, trí thảy

Các món tu phước-tuệ,

Những người như thế đó

Ðều đã thành Phật-đạo

Sau các Phật diệt-độ

Nếu người lòng lành dịu

Các chúng-sinh như thế

Ðều đã thành Phật-đạo

30.- Các Phật diệt-độ rồi

Người cúng-dàng Xá-Lợi

Dựng muôn-ức thứ tháp

Vàng, bạc và pha-lê

Xà-cừ cùng mã-não

Ngọc mai-khôi, lưu-ly

Thanh-tịnh rộng nghiêm sức,

Trau-giồi nơi các tháp,

Hoặc có dựng miếu đá

Chiên-đàn và trầm-thủy

Gỗ mật cùng gỗ khác

Gạch ngói bùn đất thảy,

Hoặc ở trong đồng trống

Chứa đất thành miếu Phật

Nhẫn đến đồng-tử giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật,

Những hạng người như thế

Ðều đã thành Phật-đạo.

31.- Nếu như người vì Phật

Xây dựng các hình-tượng

Chạm-trổ thành các tướng

Ðều đã thành Phật-đạo.

Hoặc dùng bảy báu làm

Thau, đồng bạch, đồng đỏ

Chất nhôm cùng chì kẽm

Sắt, gỗ cùng với bùn

Hoặc dùng keo, sơn, vải

Nghiêm-sức làm tượng Phật

Những người như thế đó

Ðều đã thành Phật-đạo

Vẽ vời làm tượng Phật

Trăm tướng phước trang-nghiêm

Tự làm hoặc bảo người

Ðều đã thành Phật-đạo.

Nhẫn đến đồng-tử giỡn

Hoặc cỏ cây và bút

Hoặc lấy móng tay mình

Mà vẽ làm tượng Phật

Những hạng người như thế

Lần lần chứa công-đức

Ðầy đủ tâm đại-bi

Ðều đã thành Phật-đạo

Chỉ dạy các Bồ-tát

Ðộ thoát vô-lượng chúng.

32.- Nếu người nơi tháp-miếu

Tượng báu và tượng vẽ

Dùng hoa, hương, phan, lọng

Lồng kính mà cúng-dàng

Hoặc khiến người trổi nhạc

Ðánh trống, thổi sừng ốc

Tiêu địch, cầm, không-hầu

Tỳ-bà, chụp-chả đồng

Các tiếng hay như thế

Ðem dùng cúng-dàng hết

Hoặc người lòng vui-mừng

Ca ngâm khen đức Phật

Nhẫn đến một tiếng nhỏ

Ðều đã thành Phật-đạo

33.- Nếu người lòng tán-loạn

Nhẫn đến dùng một hoa

Cúng-dàng nơi tượng vẽ

Lần thấy các đức Phật

Hoặc có người lễ lạy

Hoặc lại chỉ chắp tay

Nhẫn đến giơ một tay

Hoặc lại hơi cúi đầu

Dùng đây cúng-dàng tượng

Lần thấy vô-lượng Phật

Tự thành đạo vô-thượng

Rộng độ chúng vô-số

Vào vô-dư Niết-bàn

Như củi hết lửa tắt.

Nếu lòng người tán-loạn

Vào nơi trong tháp-miếu

Một xưng Nam-mô Phật

Ðều đã thành Phật-đạo

Nơi các Phật quá-khứ

Tại-thế, hoặc diệt-độ,

Có người nghe pháp này

Ðều đã thành Phật-đạo

34.- Các Thế-Tôn vị-lai

Số nhiều không thể lường

Các đức Như-Lai đó

Cùng phương-tiện nói pháp.

Tất cả các Như-Lai

Dùng vô-lượng phương-tiện

Ðộ thoát các chúng-sinh

Vào trí vô-lậu Phật,

Nếu có người nghe pháp

Không ai chẳng thành Phật.

Các Phật vốn thệ-nguyện

Ta tu hành Phật-đạo

Khắp muốn cho chúng-sinh

Cũng đồng được đạo này.

Các Phật đời vị-lai

Dầu nói trăm nghìn ức

Vô-số các pháp-môn

Kỳ-thực vì nhất-thừa.

Các Phật lưỡng-túc-tôn

Biết pháp thường không tính

Giống Phật theo duyên sinh

Cho nên nói nhất-thừa.

Pháp đó trụ ngôi pháp

Tướng thế-gian thường còn

Nơi đạo-tràng biết rồi

Ðức Phật phương tiện nói.

Hiện-tại mười phương Phật

Của trời người cúng-dàng

Số nhiều như hằng-sa

Hiện ra nơi thế-gian

Vì an-ổn chúng-sanh

Cũng nói pháp như thế.

Biết vắng-bặt thứ nhất

Bởi dùng sức phương-tiện

Dầu bày các món đạo

Kỳ-thực vì Phật-thừa

Biết các hạnh chúng-sinh

Thâm-tâm nó nghĩ nhớ

Nghiệp quen từ quá-khứ

Tính-dục, sức tinh-tấn

Và các căn-lợi độn

Dùng các món nhân-duyên

Thí-dụ cùng lời-lẽ

Tùy-cơ phương-tiện nói.

Từ nay cũng như vậy

Vì an-ổn chúng-sinh

Dùng các món pháp-môn

Rao bày nơi Phật-đạo

Ta dùng sức trí-tuệ

Rõ tính dục chúng-sinh

Phương-tiện nói các pháp

Ðều khiến được vui-mừng.

Xá-Lợi-Phất nên biết!

Ta dùng mắt Phật xem

Thấy sáu đường chúng-sinh

Nghèo cùng không phước-tuệ

Vào đường hiểm sinh-tử

Khổ nối luôn không dứt

Sâu tham nơi ngũ-dục

Như trâu 'mao' mến đuôi

Do tham-ái tự che

Ðui mù không thấy biết

Chẳng cầu Phật thế lớn

Cùng pháp dứt sự khổ

Sâu vào các tà-kiến

Lấy khổ muốn bỏ khổ

Phật vì chúng-sinh này

Mà sinh lòng đại-bi

36.- Xưa, tu ngồi đạo-tràng

Xem cây cùng kinh-hành

Suy-nghĩ việc như vầy:

Trí-tuệ của ta được

Vi-diệu rất thứ nhất

Chúng-sinh các căn chậm

Tham vui si làm mù

Các hạng người như thế

Làm sao mà độ được?

Bấy giờ các Phạm-Vương

Cùng các Trời Ðế-Thích

Bốn Thiên-Vương hộ đời

Và trời Ðại-tự-tại

Cùng các thiên-chúng khác

Trăm nghìn ức quyến-thuộc

Chắp tay cung-kính lễ

Thỉnh ta chuyển-pháp-luân.

Ta liền tự suy-nghĩ

Nếu chỉ khen Phật-thừa

Chúng-sanh chìm nơi khổ

Không thể tin pháp đó

Do phá pháp không tin

Rớt trong ba đường dữ

Ta thà không nói pháp

Mau vào cõi Niết-Bàn

Liền nhớ Phật quá-khứ

Thực-hành sức phương-tiện

Ta nay chứng được đạo

Cũng nên nói ba thừa.

37.- Lúc ta nghĩ thế đó

Mười phương Phật đều hiện

Tiếng phạm an-ủi ta

Hay thay! đức Thích-Ca

Bậc Ðạo-sư thứ nhất

Ðược pháp vô-thượng ấy

Tùy theo tất cả Phật

Mà dùng sức phương-tiện

Chúng ta cũng đều được

Pháp tối-diệu thứ nhất

Vì các loại chúng-sinh

Phân-biệt nói ba-thừa.

Trí kém ưa pháp nhỏ

Chẳng tự tin thành Phật

Cho nên dùng phương-tiện

Phân-biệt nói các quả

Dầu lại nói ba-thừa

Chỉ vì dạy Bồ-tát.

38.- Xá-Lợi-Phất nên biết!

Ta nghe các đức Phật

Tiếng nhiệm-mầu rất sạch

Xưng: 'Nam-mô chư Phật!'

Ta lại nghĩ thế này

Ta ra đời trược-ác

Như các Phật đã nói

Ta cũng thuận làm theo

Suy-nghĩ việc đó rồi

Liền đến thành Ba-Nại.

Các pháp-tướng tịch-diệt

Không thể dùng lời bày

Bèn dùng sức phương-tiện

Vì năm Tỷ-khiêu nói.

Ðó gọi chuyển-pháp-luân

Bèn có tiếng Niết-bàn

Cùng với A-La-Hán

Tên pháp, tăng sai khác.

Từ kiếp xa nhẫn lại

Khen bày Pháp Niết-Bàn

Dứt hẳn khổ sống chết

Ta thường nói như thế

39.- Xá-Lợi-Phất phải biết

Ta thấy các Phật-tử

Chí-quyết cầu Phật-đạo

Vô-lượng nghìn muôn ức

Ðều dùng lòng cung-kính

Ðồng đi đến chỗ Phật

Từng đã theo các Phật

Nghe nói pháp phương-tiện

Ta liền nghĩ thế này

Sở-dĩ Phật ra đời

Ðể vì nói Phật-tuệ

Nay chính đã đúng giờ.

40.- Xá-Lợi-Phất phải biết!

Người căn chậm trí nhỏ

Kẻ chấp tướng kiêu-mạo

Chẳng thể tin pháp này

Nay ta vui vô-úy

Ở trong hàng Bồ-tát

Chính bỏ ngay phương-tiện

Chỉ nói đạo vô-thượng.

Bồ-tát nghe pháp đó

Ðều đã trừ lưới nghi

Nghìn hai trăm la-hán

Cũng đều sẽ thành Phật

Như nghi-thức nói pháp

Của các Phật ba đời

Ta nay cũng như vậy

Nói pháp không phân-biệt

Các đức Phật ra đời

Lâu xa khó gặp-gỡ

Chính sử hiện ra đời

Nói pháp này khó hơn

Vô-lượng vô-số kiếp

Nghe pháp này cũng khó,

Hay nghe được pháp này

Người đó cũng lại khó

Thí như hoa linh-thoại

Tất cả đều ưa-mến

Ít có trong trời, người

Lâu lâu một lần trổ.

41.- Người nghe pháp mừng khen

Nhẫn đến nói một lời

Thời là đã cúng dàng

Tất cả Phật ba đời

Người đó rất ít có

Hơn cả hoa Ưu-đàm.

Các ông chớ có nghi

Ta là vua các pháp

Khắp bảo các đại chúng

Chỉ dùng đạo nhất thừa

Dạy bảo các Bồ-tát

Không Thanh-Văn đệ-tử

42.- Xá-Lợi-Phất các ông!

Thanh-Văn và Bồ-tát

Phải biết pháp mầu này

Bí yếu của các Phật

Bởi đời ác năm trược

Chỉ tham ưa các dục

Những chúng-sinh như thế

Trọn không cầu Phật-đạo

Người ác đời sẽ tới

Nghe Phật nói nhất-thừa

Mê lầm không tin nhận

Phá pháp đọa đường dữ

Người tàm quí trong sạch

Quyết chí cầu Phật-đạo

Nên vì bọn người ấy

Rộng khen đạo nhất-thừa.

Xá-Lợi-Phất nên biết

Pháp các Phật như thế

Dùng muôn ức phương-tiện

Tùy thời nghi nói pháp

Người chẳng học tập tu

Không hiểu được pháp này

Các ông đã biết rõ

Phật là thầy trong đời

Việc phương-tiện tùy-nghi

Không còn lại nghi lầm

Lòng sinh rất vui mừng

Tự biết sẽ thành Phật.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

QUYỂN THỨ NHẤT

 

Một sáng chiếu phương đông,

Thể diệu toàn bày,

Chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được

Thầm hiểu ở trong lòng,

Phương-tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.

Nam-mô Pháp-hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)

 

Thế-Tôn hiện điềm tốt,

Di-Lặc nghi tướng lành,

Văn-Thù vì chúng rộng phô bày:

Phật xưa phóng hào-quang.

Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.

Nam-mô quá-khứ Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh Phật (3 lần)

 

THÍCH NGHĨA

(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là 'Khế Kinh' nghĩa là  'pháp thường khế hiệp chân-lý cùng khế hiệp căn-cơ chúng-sinh'. DIỆU PHÁP LIÊN HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả các pháp. Kinh pháp này là bậc nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc-biệt:

1. Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.

2. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.

3. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.

4. Ong và bướm không bu đậu.

5. Không bị người dùng làm trang điểm (Xưa đàn bà Ấn-Ðộ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)

(2) Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công-đức lành.

(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh-tử luân hồi.

(5) Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.

(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi 'Hữu-học'. Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong tiểu thừa pháp, thời không còn phải học nữa nên gọi Vô-học.

(7) Quả chứng của Phật.

(8) Tổng trì: Gồm nhiếp các Pháp.

(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.

(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.

(11) Tên của vị vua 33 nước trời Ðao-lỵ ở trên đỉnh núi Tu-Di.

(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.

(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Ðao-lỵ.

(14) Thần phi-thiên: có phúc như trời mà đức kém hơn trời.

(15) Chim cánh vàng (kim sí-điểu)

(17) Thần rắn.

(18) 1) Trời, 2) Người, 3) A-tu-la, 4) Thú, 5) Quỉ, 6) Ðịa ngục.

(19) Phật là vua pháp (pháp-vương). Bồ-tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.

(20) Người thụ tam-qui ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là 'Cư-sĩ'.

(21) Vô-số (một số lớn). Kiếp có: tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp. Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm. Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp. Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.

(22) 1) Khổ-đế, 2) Tập-đế, 3) Diệt-đế, 4) Ðạo-đế.

(23) 1) Vô-minh, 2) Hành, 3) Thức, 4) Danh sắc, 5) Lục nhập, 6) Xúc, 7) Thụ, 8) Ái, 9) Thủ, 10) Hữu,

11) Sinh, 12) Lão-tử . 12 món này làm nhân duyên lẫn nhau.

(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4)Tinh-tấn-độ, 5) Thuyền-định-độ,

6) Trí-tuệ-độ.

(25) Trí của Phật.

(26) 1) Ðông-thắng-thần châu. 2) Nam-Thiệm-bộ châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa châu, 4) Bắc-câu-lô

châu.

(27) (THỌ-KÝ): Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...

(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Ðộ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số

cát ấy để chỉ một một số đông nhiều.

(29) Ông thầy dắt dẫn.

(30) Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa, Phật-thừa.

(31) Phương-chước hay phương-pháp tiện-lợi dễ-dàng.

Sự Tích Tả Kinh Pháp Hoa - Ông Nghiêm Cung

 

Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Ðại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phát cho người trì tụng.

Lúc đó có thần ở miếu Cung-Ðình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.

Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: 'Giúp ông mua giấy'. Nói xong biến mất.

Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Ðô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.

Ðến cuối đời Ðường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.

'Vậy thời tả kinh, hay in kinh công-đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện-tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà mọi người ở gần cũng được nhờ, cả thần thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.'

 

home.gif (90 bytes) Quyển 1 2 3 4 5 6 7 next.gif (92 bytes)

trangnha.jpg (3649 bytes) vedautrang.jpg (2795 bytes)