Vietnamese|English Chánh Pháp Là Ǵ ? Trần Do Bân ![]()
![]()
Chánh Pháp là ǵ? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp. Các thời kỳ Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi chép trong các kinh điển th́ không đồng nhất, nhưng hầu hết các bậc cổ đức đều theo thuyết định thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mat Pháp là 10.000 năm. Trong thời Chánh Pháp (chánh có nghĩa là chứng), mặc dầu Đức Phật đă diệt độ, nhưng Pháp nghi vẫn không thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành tŕ, và có người chứng đắc quả vị--đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và c̣n được mệnh danh là thời kỳ "Thiền Định kiến cố". Trong thời Tượng Pháp (tượng có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành tŕ, nhưng số người chứng đắc quả vị th́ rất ít; thời kỳ này c̣n được gọi là thời kỳ "tự miếu kiên cố". Trong thời Mạt Pháp (mạt có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có giáo pháp chứ không có sự hành tŕ, và càng không có người chứng đắc quả vị. Thời kỳ này c̣n được gọi là thời kỳ "đấu tranh kiên cố". Đây là lời giải thích thông thường về ba thời kỳ "Chánh, Tượng và Mạt" của Phật Pháp. Thế nhưng, Ḥa Thượng định nghĩa về Chánh Pháp như sau:
Thậm chí Ḥa Thượng c̣n giảng nghĩa một cách đơn giản hơn nữa:
Như vậy, thế nào là thời kỳ Mạt Pháp? Trong quyển 5 của Pháp Hoa Nghĩa Sớ có chép: "Khi [Pháp] trở thành suy vi, đó gọi là thời Mạt Pháp." Trong quyển 6, chương Nghĩa Lâm của Đại Thừa Pháp Uyển có nói: "Chỉ có giáo pháp mà không có ǵ khác th́ gọi là Mạt Pháp." Tuy nhiên, sự mô tả chân chánh tường tận về thuyết Mạt Pháp được xuất hiện trong Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, phần Nguyệt Tạng, và trong Kinh Pháp Diệt Tận. Về sau, thuyết Mạt Pháp xuất hiện dưới triều đại Bắc Tề (550-377 SCN), trong bài văn phát nguyện của Thiền Sư Huệ Tư ở Nam Nhạc (Nam Nhạc Tư Thiền Sư Lập Thệ Nguyện Văn). Thiền Sư Huệ Tư đă tự ghi lại là ngài sanh vào năm thứ 82 của thời Mạt Pháp và đă chép lại toàn bộ Kinh Bát Nhă cùng nhiều bản văn khác. Ngài đă nguyện sẽ truyền Pháp cho đến khi Bồ Tát Di Lặc đến thế gian này. Đời nhà Tùy (589-618 SCN), Thiền Sư Tín Hành đề xướng "giáo pháp ba giai đoạn" (tam giai giáo) với Nhất Thừa là giai đoạn đầu tiên, Tam Thừa là giai đoạn thứ nh́, và Phổ Pháp (toàn bộ lời dạy của Đức Phật) là giai đoạn thứ ba. Trong đời nhà Đường (618-905 SCN), Đại Sư Đạo Trác và Đại Sư Thiện Đạo có nói rằng đương thời là đă vào thời Mạt Pháp, và chủ trương "thời giáo tương ưng" (khế hợp giáo pháp với thời đại), khuyến khích người đời tu pháp môn Niệm Phật. Nói chung, cho dù thời kỳ Mạt Pháp nhất định có xảy đến chăng nữa, th́ trong quyển 49 của Thập Tụng Luật, Đức Phật cũng đă nêu ra năm điều có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. Năm điều này là: 1. Tôn Trọng Chánh Giáo. Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo chỉ dựa vào giáo pháp chân chánh mà tiến tu, xa lánh cái nh́n lệch lạc (thiên kiến) của Tiểu Thừa cùng các tà thuyết của ngoại đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 2. Chỉ Tức Sân Ác (đ́nh chỉ nóng giận và ác độc). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo luôn luôn thực hành hạnh nhẫn nhục, không nóng giận, danh tiếng về đức độ lan xa làm cho mọi người đều quay về và dốc ḷng kính ngưỡng; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 3. Kính Sự Thượng Ṭa (tôn kính phụng sự các bậc trưởng thượng). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo tôn kính và phục ṭng các vị đại đức ở hàng thượng tọa và chuyên cần cầu học yếu nghĩa Phật Pháp từ họ; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 4. Ái Lạc Chánh Pháp (trân quư Chánh Pháp). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo trân quư thâm sâu những điều pháp nghe được từ các bậc thượng tọa, trưởng lăo kỳ cựu, và vui mừng thực hành theo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. 5. Thiện Hối Sơ Tập (giải thích kỹ càng cho kẻ sơ học). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo phương tiện diễn nói pháp Đại Thừa một cách khéo léo, làm cho những kẻ mới bắt đầu học Phật Pháp có thể dựa vào để tiến tu trên đường Đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt. Vào thời Mạt Pháp chúng sanh không thể liên tục phân biệt đuợc chánh tà, đến nỗi nhiều người muốn vào cửa Phật nhưng đă vào lầm cửa mà tu hành. Đó là do họ thiếu "Trạch Pháp Nhăn." Mặc dầu trong thời Mạt Pháp, hiện tượng "mắt cá xen lẫn ngọc trai" [vàng thau lẫn lộn] trong cửa Phật không phải là ít, song nguyện lực của Ḥa Thượng rất rơ ràng:
Mặc dầu Đức Phật nhiều lần đề cập đến sự hủy diệt của Phật Pháp, tuy nhiên Đức Phật cũng có ư khắc phục sự hủy diệt của Chánh Pháp. Như trong Kinh Niết Bàn có chép: "Trong thời Mạt Pháp sẽ có mười hai vạn (120.000) vị Đại Bồ Tát tŕ Pháp, khiến cho bất diệt." Từ đó có thể biết được rằng nguyện lực "không cho phép có Mạt Pháp" của Ḥa Thượng há chẳng phải chính là tâm đại từ đại bi của chư Như Lai hay sao? Ḥa Thượng đă cảm khái rằng:
Tạm dịch:
Trong Phật Giáo không thể có 99%--nếu chỉ một phần nhỏ trong Phật Giáo là giả dối, th́ đó không c̣n là "Chánh Pháp" nữa! Do đó chúng ta phải phân biệt thật rơ ràng, bởi v́ trong các chùa chiền đều có cả "tà pháp và ngoại đạo". Phật Giáo có câu: "Thà cả ngàn năm chẳng văng sanh, c̣n hơn một ngày trong ma đạo". Nếu chúng ta thiếu Trạch Pháp Nhăn của "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" (trong Kinh Lăng Nghiêm) e rằng chúng ta có thể trở thành quyến thuộc của loài ma mà chính ḿnh lại không hay không biết! Nhân đây, người viết xin giới thiệu bảy điểm rất quan trọng trong việc phân biệt chánh tà: 1. Vị Thầy lấy việc trao đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ, làm mồi nhử để thu hút đồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là tà. 2. Vị Thầy khơi dậy ḷng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng ḿnh có thể dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họ trở nên giàu có; đó là tà. 3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hai chúng sanh và ăn thịt chúng sanh, c̣n nói rằng ḿnh có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của những chúng sanh bị ăn thịt; đó là tà. 4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà. 5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những chúng sanh có ḷng hiếu kỳ; đó là tà. 6. Vị Thầy tự ư thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải thích lệch lạc ư nghĩa của "tín, giải, tu, chứng," c̣n tự cho ḿnh là giáo chủ; đó là tà. 7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính ḿnh lại không có căn bản chân thật về đạo lư Phật Giáo; đó là tà.
Một lần nọ, có một Phật tử hỏi:
Ḥa Thượng trả lời:
Từ đoạn nói chuyện trên, chúng ta có thể thấu rơ được tâm từ bi bao la không đành ḷng thấy chúng sanh bị đau khổ của Ḥa Thượng. Đó gọi là "đại từ đại bi, gần như tàn nhẫn", và chính là thiện xảo phương tiện để giáo hóa chúng sanh của bậc Bồ Tát. Ḥa Thượng có lần viết bài thơ nói lên quyết tâm của Ngài:
Ḥa Thượng Hư Vân đă nói:
Trong kinh có nói rằng những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt Pháp có thể nhận thấy ở khắp nơi - như việc Tăng sĩ cưới vợ, ni cô lấy chồng, giới y cà-sa được thay bằng y phục thế tục, cư sĩ ngồi trên ṭa cao, v.v ... Có cư sĩ Âu Dương Cánh Vô đă dùng tri kiến riêng của ḿnh mà viết ra Lăng Nghiêm Bách Ngụy Thuyết để phản đối Lăng Nghiêm. Lại có Pháp Sư Viễn Tham nói rằng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp Hoa và nhiều kinh khác, cũng như Đại Thừa Khởi Tín Luận đều là giả mạo. Đây chính là những hiện tượng của Thời Kỳ Mạt Pháp. Ḥa Thượng đă nhiều lần lập đi lập lại lời huấn thị về việc bảo vệ và duy tŕ Chánh Pháp:
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn Giả Ca Diếp rằng:
"Pháp" tự nó vốn không có "Chánh, Tượng, Mạt"; nhưng tâm con người th́ có sự phân biệt về "Chánh, Tượng, Mạt". Theo Ḥa Thượng, bất cứ khi nào c̣n có người dụng công tu hành, th́ khi đó là Chánh Pháp c̣n đang trụ thế. Nếu không c̣n ai tu hành, không có người nào đọc, tụng, và học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, th́ đó là Thời Kỳ Mạt Pháp. Bởi trong Kinh Lăng Nghiêm, có phần "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" giảng về sát sanh (sát), trộm cắp (đạo), dâm dục (dâm), dối trá (vọng); với phần "Ngũ Thập Ấm Ma” giảng về thiên ma, ngoại đạo cặn kẽ đến tận xương tuỷ; và cả hai phần này đều nói rất rơ ràng rằng khi nào không c̣n người giữ giới, th́ khi đó là Thời Kỳ Mạt Pháp. Giới c̣n, tức là Phật Pháp c̣n vậy! Vào năm 1990, trong một lần thuyết giảng tại Trung Tâm Lao Công ở Cao Hùng, Đài Loan, Ḥa Thượng đă khẩn thiết nói rằng: "Thời Kỳ Mạt Pháp là do những người tại gia chỉ hộ tŕ cho một người xuất gia riêng lẻ mà tạo thành!". V́ sao lại như thế? Ḥa Thượng giải thích rằng:
Ḥa Thượng hoàn toàn không phản đối việc xây chùa, nhưng chỉ v́ con người ngày nay quá hưởng thụ, không biết lấy Pháp nghĩa và giáo dục (nghĩa lư Phật Pháp và đạo lư giáo dục) để hóa độ chúng sanh. Họ chỉ biết dùng "chùa lớn" để độ chúng sanh, cùng bày ra phương cách để được nổi tiếng và trở nên giàu có. Cái nh́n của Ḥa Thượng về việc xây chùa như sau:
Tôi hy vọng Phật Giáo sẽ ghi ḷng tạc dạ những lời này và đừng tiếp tục "bịt tai ăn cắp chuông," dối gạt nhân loại nữa. Hiện nay, các dấu hiệu hỗn loạn trong Phật Giáo tại Đài Loan đă vô cùng nghiêm trọng, có thể nói là đến mức phải báo động rồi; thế nhưng, chẳng có người nào dám đứng ra lên tiếng kêu gọi; mà ai nấy chỉ trố mắt ngồi nh́n cảnh Phật Giáo đang đi dần về hướng diệt vong. Cách ba bước là có một tịnh xá, đi năm bước là gặp một ngôi chùa lớn – mọi người đều ra sức tổ chức Pháp hội, siêu độ vong linh, làm lễ quán đảnh, truyền Pháp, xây chùa..., mà chẳng hay biết ǵ về việc hoằng dương giáo nghĩa, hướng dẫn chúng sanh làm thế nào để chấm dứt sanh tử! (2) Giáo nghĩa căn bản của Đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sanh đều có trí huệ, có Trạch Pháp Nhăn, biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện; chứ chẳng phải một mực chú trọng về việc xây chùa dựng miếu, tổ chức Pháp hội! Chúng ta có bao giờ tự hỏi rằng đằng sau những lời giáo huấn nghiêm khắc này của Ḥa Thượng ẩn giấu biết bao máu lệ xót xa? Như ư nghĩa trong câu “đản năng quang chiếu viễn, bất tích tự phần thân”, Ḥa Thượng chỉ muốn ánh sáng từ ngọn đuốc trên tay Ngài soi sáng đuợc càng xa càng tốt, mà chẳng quan tâm đến việc ḿnh bị phỏng! "Dầu gặp muôn vàn khó khăn, tôi vẫn giữ vững ư chí của ḿnh." Đây là lời mô tả chân thật nhất về Ḥa Thượng.
Ghi chú của Ban Việt Dịch: (1) - Mạnh Tử (Mạnh Kha), người đất Châu (372-289 trước Tây lịch), là một nhà hiền triết có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ đạo Nho. - Dương Tử (Dương Chu), người nước Vệ (khoảng 440-360 trước Tây lich); là một triết gia thời Chiến Quốc; chủ trương thuyết "vị ngă"—chi lo riêng về việc ḿnh mà không hề đếm xỉa đến thiên hạ sự, quyết gạt bỏ ngoài tại chuyện của người. - Mặc Tử (Mặc Địch), người nước Sở, là một đại học giả thời Chiến Quốc, làm Đại Phu cho nước Tống; chủ trương thuyết kiêm ái và ḥa b́nh; lập ra học phái Mặc Gia, lấy kiêm ái làm chủ đích. (2) Lăo Ḥa Thượng Quảng Khâm đă từng khai thị rằng: "Trên thế gian hiện nay, đích thực có những người xuất gia như thế. Họ chỉ mưu tính khuếch trương ngôi chùa của ḿnh cho lớn, chiêu dụ tín đồ theo ḿnh cho đông, để khoe là có khả năng trước mặt mọi người! Họ không cho phép tín đồ kính tin các vị Phật ở những chùa khác (chỉ được tin vị Phật ở chùa của họ mà thôi!); và tín đồ cũng chỉ được tin một ḿnh họ thôi, không được tôn kính những người xuất gia khác. Hạng người cống cao ngă mạn, tự tôn tự đại này, chẳng phải vẫn c̣n lăn lóc trong ṿng danh lợi giống như người tại gia b́nh thường, sống lây lất trong khổ năo qua ngày đoạn tháng sao? Phật Pháp vốn chưa suy vi, chính là ḷng người đang suy vi vậy!"
Return to homepage | Top of page
|