Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh

Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt Ma

Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên Hóa.

 

1 2 3 4 5

(tiếp theo)

 

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ, Ư CHÚNG HỘI TIỀN, HỢP CHƯỞNG CHÁNH TRỤ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI ĐẠI BI TÂM, KHAI NHAN HÀM TIẾU, TỨC THUYẾT NHƯ THỊ QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. ĐÀ-LA-NI VIẾT: ...

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, tươi mặt cười nụ, tuyên thuyết chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy: ...

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, tươi mặt cười nụ... “Tươi mặt cười nụ” tức là miệng cười chúm chím, nét mặt lộ vẻ hân hoan. Nếu mặt mày quạu quọ, lầm lì nhăn nhó, thì gọi là “xụ mặt.” Quý vị cần phải rạng rỡ tươi vui, chứ đừng nên lúc nào cũng mặt ủ mày chau, hoặc sầm đen lại như đang giận ai vậy. (Ở Trung Hoa có ông Bao Công mặt sắt đen sì, song đó không phải là dấu hiệu của sự giận dữ!)

Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát chắp hai tay lại và đứng ngay ngắn trước mặt Đức Phật cùng đại chúng, rồi sanh lòng đại từ đại bi thương xót tất cả chúng sanh, Ngài tươi cười rạng rỡ và lập tức tuyên thuyết chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy: ...

Kinh Văn:

NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA DA. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA CA LÔ NI CA DA. ÁN. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ. SÓC ĐÁT NA ĐÁT TẢ. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ. NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐA SA MẾ. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG. A THỆ DỰNG. TÁT BÀ TÁT ĐÁ, NA MA BÀ TÁT ĐA, NA MA BÀ GIÀ. MA PHẠT ĐẶC ĐẬU. ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN, A BÀ LÔ HÊ. LÔ CA ĐẾ. CA RA ĐẾ. DI HÊ RỊ. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA. TÁT BÀ TÁT BÀ. MA RA MA RA. MA HÊ MA HÊ, RỊ ĐÀ DỰNG. CU LÔ CU LÔ YẾT MÔNG. ĐỘ LÔ ĐỘ LÔ, PHẠT GIÀ RA ĐẾ. MA HA PHẠT GIÀ DA ĐẾ. ĐÀ LA ĐÀ LA. ĐỊA LỴ NI. THẤT PHẬT RA DA. GIÁ RA GIÁ RA. MA MA PHẠT MA RA. MỤC ĐẾ LỆ. Y HÊ DI HÊ. THẤT NA THẤT NA. A RA SAM PHẬT RA XÁ LỢI. PHẠT SA PHẠT SAM. PHẬT RA XÁ DA. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ RỊ. TA RA TA RA. TẤT LỴ TẤT LỴ. TÔ RÔ TÔ RÔ. BỒ ĐỀ DẠ, BỒ ĐỀ DẠ. BỒ ĐÀ DẠ, BỒ ĐÀ DẠ. DI ĐẾ RỊ DẠ. NA RA CẨN TRÌ. ĐỊA LỴ SẮT NI NA. BA DẠ MA NA. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. MA HA TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DU NGHỆ. THẤT BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TRÌ. TA BÀ HA. MA RA NA RA. TA BÀ HA. TẤT LỖ TĂNG A MỤC KHƯ DA. TA BÀ HA. TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. GIẢ CÁT RA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TRÌ, BÀN GIÀ RA DA. TA BÀ HA. MA BÀ LỢI THẮNG, YẾT RA DA. TA BÀ HA. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A LỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ. THƯỚC BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. ÁN, TẤT ĐIỆN ĐÔ. MẠN ĐÀ RA. BẠT ĐÀ DA. TA BÀ HA.

Lược giảng:

Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Kinh Đại Bi Đà La Ni, do đó tạm thời chưa giảng đến bài Chú Đại Bi này. Chỉ riêng một bài Chú này thôi cũng phải cần rất nhiều thời gian mới giảng giải cho tường tận được; do đó, bây giờ tôi chỉ giảng phần Kinh văn, còn ý nghĩa của Chú (Chú nghĩa) thì để khi nào có cơ hội tôi sẽ giải thích cặn kẽ sau. Và, luôn cả Chú Lăng Nghiêm cũng vậy, trong tương lai, nếu có cơ duyên thuận tiện thì tôi sẽ giảng nghĩa cho quý vị nghe; còn hôm nay thì tôi chỉ giải thích sơ lược về câu đầu và câu cuối của bài Chú Đại Bi này mà thôi.

Câu đầu tiên của Chú Đại Bi là “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da.” 

“Nam mô” có nghĩa là quy y, quay về nương tựa; do đó câu chú trên trở thành “Quy y Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da,” và có nghĩa là “quy y tận hư không, biến Pháp Giới, thập phương tam thế, vô tận vô tận Tam Bảo” (con về nương tựa vô lượng vô biên Tam Bảo ở tận cùng hư không và khắp cả Pháp Giới trong mười phương ba đời). Nói theo đồ hình thì đây là bổn thân của Quán Thế Âm Bồ-tát. Nếu quý vị trì niệm câu chú này thì Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ giúp cho mọi sở cầu của quý vị đều được toại nguyện, viên mãn như ý. 

Câu cuối cùng của bài Chú Đại Bi là “Án Tất Điện Đô. Mạn Đà Ra. Mạt Đà Da. Ta Bà Ha.” Câu này nghĩa là gì? Câu này hàm ý là tất cả mọi nguyện vọng thiết tha của hành giả đều sẽ mau chóng được thành tựu. Quý vị trì niệm câu Chú này thì những điều nguyện ước hoặc hy vọng của quý vị sẽ không những được thành tựu mà còn thành tựu một cách nhanh chóng nữa.

Trên đây là sơ lược về ý nghĩa của câu đầu và câu cuối của bài Chú Đại Bi.

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỬ CHÚ DĨ, ĐẠI ĐỊA LỤC BIẾN CHẤN ĐỘNG, THIÊN VŨ BẢO HOA, TÂN PHÂN NHI HẠ. THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TẤT GIAI HOAN HỶ. THIÊN MA NGOẠI ĐẠO, KHỦNG BỐ MAO THỤ. NHẤT THIẾT CHÚNG HỘI, GIAI HOẠCH QUẢ CHỨNG: HOẶC ĐẮC TU-ĐÀ-HOÀN QUẢ, HOẶC ĐẮC TƯ-ĐÀ-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-NA-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-LA-HÁN QUẢ, HOẶC ĐẮC NHẤT ĐỊA, NHỊ ĐỊA, TAM ĐỊA, TỨ ĐỊA, NGŨ ĐỊA, NÃI CHÍ THẬP ĐỊA GIẢ. VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM.

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách, trời mưa hoa báu xuống lả tả, mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hãi đến dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán, hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, cho đến Thập Địa; vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm.

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách ... “Đại địa” (cõi đất lớn) tức là mặt đất mà chúng sanh chúng ta đang cư ngụ. Như đã đề cập trong phần trước, sáu loại chấn động của đại địa (lục chủng chấn động) là chấn, hống, kích, động, dũng và khởi. 

1) Chấn tức là chấn động (vang dội, rúng động); 
2) Hống là gầm rống, gào thét; 
3) Kích có nghĩa là va chạm, đập vào nhau.
Chấn, hống và kích là những chấn động thuộc về âm thanh.
4) Động tức là động cựa hướng về phía trên; 
5) Dũng là dũng hiện, hàm ý phun vọt lên trên; 
6) Khởi tức là vùng dậy, khởi lên. 

Động, dũng và khởi là những chấn động về mặt hình thể.

Sáu loại chấn động này lại có thể biến chuyển thành mười tám thứ chấn động khác nhau mà trước đây tôi đã có giảng rồi, và tôi tin rằng quý vị vẫn còn nhớ cho nên không cần phải giảng tỉ mỉ lại nữa!

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chấn động của đại địa. Sáu loại chấn động có thể xảy ra do: 1) ở thế gian có người thành Phật; 2) có người chứng đắc quả vị A-la-hán; 3) có chư Phật hoặc Bồ-tát tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa. 
Ba sự kiện trên là thuộc về phương diện thiện (điềm lành) và khi xảy ra thì cả đại địa đều chấn động sáu cách. Ngoài ra, địa chấn cũng có thể xảy ra do: 1) có Ma-vương xuất hiện (Ma-vương có thể dùng ma lực của mình để làm cho đại địa biến thành chấn động sáu cách); 2) có thiên tai nhân họa xảy ra bởi nghiệp cảm của chúng sanh; 3) trời đất phát sinh tai biến.
Địa chấn thì có loại tốt, có loại không tốt. Địa chấn xảy ra bởi ba nguyên nhân đầu thì không gây tổn hại gì cho nhân loại cả; còn địa chấn bởi ba nguyên nhân sau thì đều là những tai họa đối với loài người. Thế nhưng, mức độ tác hại do địa chấn gây ra, như tôi vừa nói ban nãy, còn tùy thuộc vào nghiệp cảm của chúng sanh nữa. Mặc dù nói rằng nếu nghiệp lực của chúng sanh quá nặng thì biến cố sẽ xảy ra, nhưng nếu ở nơi đáng lẽ phải có tai ương giáng xuống đó mà có bậc thánh nhân—Phật, Bồ-tát, A-la-hán—ra đời, thì tai ương của nơi đó có thể sẽ chuyển dời sang nơi khác, hoặc có thể từ họa lớn biến thành họa nhỏ, hoặc từ họa nhỏ biến thành tiêu tan. Cho nên, ở thế gian này chẳng có gì là nhất định cả.
Vừa rồi chỉ là sơ lược về ý nghĩa cùng tình hình của hiện tượng địa chấn; nếu đi sâu vào chi tiết, thì còn có rất nhiều quan hệ và nguyên nhân vi tế khác vô cùng phức tạp.

Trời mưa hoa báu xuống lả tả. Các thiên nữ ở cõi trời đua nhau rải hoa báu xuống, cứ hết đóa này đến đóa khác liên tiếp rơi xuống như mưa.

Mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hãi đến dựng lông tóc. Lúc bấy giờ, tất cả chư Phật trong mười phương đều sanh tâm hoan hỷ; còn các Ma-vương và hàng ngoại đạo trên cõi trời thì đều rùng mình khiếp sợ, sợ đến nỗi bao nhiêu lông tóc đều dựng đứng lên cả.

Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán. Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú Đại Bi xong, trong đại chúng có rất nhiều vị chứng được Sơ Quả A-la-hán, Nhị Quả A-la-hán, Tam Quả A-la-hán hoặc Tứ Quả A-la-hán.

Hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến Thập Địa. Lại nữa, trong Pháp Hội cũng có rất nhiều vị chứng đắc được các địa vị của Bồ-tát Đại Thừa như Nhất Địa (Hoan Hỷ Địa), Nhị Địa (Ly Cấu Địa), Tam Địa (Phát Quang Địa), Tứ Địa (Diệm Huệ Địa), Ngũ Địa (Nan Thắng Địa), Lục Địa (Hiện Tiền Địa), Thất Địa (Viễn Hành Địa), Bát Địa (Bất Động Địa), Cửu Địa (Thiện Huệ Địa), và Thập Địa (Pháp Vân Địa).

Vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Ngoài ra, ngay lúc ấy còn có vô lượng vô biên chúng sanh phát khởi tâm Bồ-Đề rộng lớn.

Kinh Văn:

NHĨ THỜI, ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG TÙNG TÒA NHI KHỞI, CHỈNH LÝ Y PHỤC, HỢP CHƯỞNG CUNG KÍNH, BẠCH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “THIỆN TAI, ĐẠI SĨ! NGÃ TÙNG TÍCH LAI, KINH VÔ LƯỢNG PHẬT HỘI, VĂN CHỦNG CHỦNG PHÁP, CHỦNG CHỦNG ĐÀ-LA-NI, VỊ TẰNG VĂN THUYẾT NHƯ THỬ VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐẠI BI ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. DUY NGUYỆN ĐẠI SĨ, VI NGÃ THUYẾT THỬ ĐÀ-LA-NI HÌNH MẠO TRẠNG TƯỚNG, NGÃ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, NGUYỆN NHẠO DỤC VĂN.”

Nghĩa: Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật Hội, được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Chỉ mong Đại Sĩ vì tôi mà nói về hình mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy; tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe.”

Lược giảng:


Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề... Quý vị đều có biết đôi chút về vị Đại Phạm Thiên Vương này. Đại Phạm Thiên Vương có ba con mắt, tay cầm phất trần màu trắng (bạch phất), và cỡi con trâu trắng (bạch ngưu). Ngài ngồi Thiền, ngủ nghỉ ngay trên mình trâu và cảm thấy rất tự tại, rất thú vị; bởi Ngài nhận thấy mình được ung dung tự tại nhất, cho nên nơi Ngài ở được gọi là Đại Tự Tại Thiên, một cảnh trời cao nhất trong Sắc Giới Thiên.

Vậy, sau khi đứng dậy và vuốt lại vạt áo thiên y không phải khâu may của mình cho ngay ngắn rồi, Đại Phạm Thiên Vương cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Ngài quả là một vị Bồ-tát vĩ đại nhất! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật Hội. Tôi đã từng được tham dự vô lượng vô biên Phật Hội, số nhiều đến không thể đếm xuể, đồng thời tôi cũng được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, vô số Tổng Trì, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Tôi chưa bao giờ được nghe thấy một chương cú thần diệu, nhiệm mầu như Thần Chú Đại Bi này.

Chỉ mong Đại Sĩ vì tôi mà nói về hình mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy. Tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe. Hiện nay toàn thể đại chúng chúng tôi ở trong Pháp Hội này đều thiết tha mong được lắng nghe Đại Sĩ nói rõ về hình tướng của Chú Tổng Trì này!”

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CÁO PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NHỮ VI PHƯƠNG TIỆN LỢI ÍCH NHẤT THIẾT CHÚNG SANH CỐ, TÁC NHƯ THỊ VẤN, NHỮ KIM THIỆN THÍNH, NGÔ VI NHỮ ĐẲNG, LƯỢC THUYẾT THIỂU NHĨ.”

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì các Ông mà lược thuyết đôi điều.”

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì các Ông mà lược thuyết đôi điều.” 

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói với Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Vì muốn đem lại sự lợi ích cho hết thảy chúng sanh nên Ông mới đến đây nghe Pháp và đặt câu hỏi như thế. Vậy, Đại Phạm Thiên Vương ơi! Bây giờ Ông hãy chú ý lắng nghe, Ta sẽ vì đại chúng các Ông mà nói sơ lược đôi chút về đạo lý này!”

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “ĐẠI TỪ BI TÂM THỊ, BÌNH ĐẲNG TÂM THỊ, VÔ VI TÂM THỊ, VÔ NHIỄM TRƯỚC TÂM THỊ, KHÔNG QUÁN TÂM THỊ, CUNG KÍNH TÂM THỊ, TỲ HẠ TÂM THỊ, VÔ TẠP LOẠN TÂM THỊ, VÔ KIẾN THỦ TÂM THỊ, VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM THỊ. ĐƯƠNG TRI NHƯ THỊ ĐẲNG TÂM, TỨC THỊ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, NHỮ ĐƯƠNG Y THỬ NHI TU HÀNH CHI!”

ĐẠI PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NGÃ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, KIM THỦY THỨC THỬ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, TÙNG KIM THỌ TRÌ, BẤT CẢM VONG THẤT.”

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo: “Đó là tâm Đại Từ Bi, là tâm Bình Đẳng, là tâm Vô Vi, là tâm Vô Nhiễm Trước, là tâm Không Quán, là tâm Cung Kính, là tâm Tỳ Hạ, là tâm Vô Tạp Loạn, là tâm Vô Kiến Thủ, là tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy ông nên y theo đó mà tu hành.”

Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Từ nay chúng tôi xin thọ trì, chẳng dám quên lãng.”

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông muốn biết Đại Bi Tâm Đà-La-Ni là gì ư? Ta nói cho Ông rõ: Đó là tâm Đại Từ Bi.

Đại Từ Bi Tâm chính là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Lòng “từ” có thể ban vui, tâm “bi” có thể cứu khổ; do đó nếu quý vị có được lòng từ bi bao la, rộng lớn thì đó chính là Chú Đại Bi vậy. Quý vị đã nghe rõ cả chưa? Đại Bi Tâm chính là Đại Bi Chú, Đại Bi Chú chính là Đại Bi Tâm. Quý vị có tâm Đại Bi tức là quý vị đang niệm Chú Đại Bi; nếu quý vị không có tâm Đại Bi tức là quý vị chưa niệm Chú Đại Bi vậy!

Hằng ngày, cho dù từ sáng đến tối quý vị luôn lầm rầm tụng niệm: “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da…,” nhưng nếu quý vị không có lòng đại từ đại bi thì đó không phải là niệm Chú Đại Bi. Trái lại, nếu quý vị chẳng hề niệm Chú Đại Bi, song thâm tâm lúc nào cũng tồn giữ tấm lòng đại từ đại bi, thì đó chính là quý vị đang trì niệm Chú Đại Bi vậy! Quý vị hiểu rõ cả rồi chứ? Cho nên, song song với việc niệm Chú, quý vị cần phải nuôi dưỡng cái tâm Đại Từ Bi nữa, như thế mới là chân chánh niệm Chú!

“Là tâm Bình Đẳng.” Chú Đại Bi là gì? Đó là cái tâm bình đẳng, cái tâm không phân biệt. Tâm bình đẳng là một cái tâm “vô đảng vô thiên” (không phe nhóm, chẳng thiên vị); và cái tâm ấy chính là Chú Đại Bi.

Chúng ta không nên niệm Chú Đại Bi với lòng ích kỷ, phân biệt: “Người này là anh em của tôi thì tôi phải gần gũi anh ta hơn. Cô kia là bạn của tôi, thì tôi phải thân thiết với cô ta hơn. Người ấy không có quen biết gì với tôi cả, vậy tôi nên tránh xa hắn...”; bởi như thế tức là không có tâm bình đẳng.

“Bình đẳng” tức là đối với anh em ruột thịt cũng vậy mà không phải là anh em ruột thịt thì cũng vậy—chúng ta xem tất cả đều như nhau, chẳng hề phân biệt thân sơ. Đối với bạn bè, anh em, và ngay cả người dưng kẻ lạ, chúng ta đều nên đãi ngộ ngang nhau, giống nhau. Nếu quý vị cư xử tử tế với anh em của mình, thì đối với mọi người khác, quý vị cũng nên tử tế giống như với anh em của quý vị vậy; như thế mới gọi là có tâm bình đẳng. Và nếu quý vị hiếu thảo với cha mẹ, thì quý vị cũng nên xem những người tuổi tác đều như cha mẹ mình, và cũng quan tâm, hiếu thuận với họ giống như với cha mẹ mình; đó là có tâm bình đẳng vậy.

Nói tóm lại, tâm bình đẳng là cái tâm “vô đảng, vô thiên.” Quý vị có tâm bình đẳng, tức là có niệm Chú Đại Bi; không có tâm bình đẳng tức là không niệm Chú Đại Bi vậy.

“Là tâm Vô Vi.” “Vô vi” có nghĩa là không làm; thế thì “không làm” điều gì? Đó là không làm những việc tà vạy, không khởi tà niệm, không sanh tà tri tà kiến. Cái tâm luôn nhắc nhở quý vị chớ nên làm điều xấu xa bại hoại, được gọi là tâm vô vi. Quý vị không làm điều xấu điều ác, tức là quý vị đang niệm Chú Đại Bi! Nếu quý vị vừa niệm Chú Đại Bi lại vừa làm điều sai trái, tức là quý vị không có tâm vô vi; và như thế có nghĩa là quý vị không niệm Chú Đại Bi vậy!

“Là tâm Vô Nhiễm Trước.” Tâm vô nhiễm trước là cái tâm sáng trong thanh tịnh, không chấp trước, không tạp niệm, không vọng tưởng, không tà niệm, không dục niệm—nói rõ hơn, là không có các ý tưởng dâm dục. Nếu quý vị không có lòng tham đắm sắc dục, tức là quý vị có tâm vô nhiễm trước. Trái lại, nếu quý vị có những ý nghĩ dâm ô tà vạy, dục vọng nặng nề, tức là trong tâm quý vị có sự nhiễm trước, bợn nhơ; mà niệm Chú Đại Bi với cái tâm nhiễm trước thì không phải là niệm Chú Đại Bi! Cho nên, những người hiện đang trì niệm Chú Đại Bi đều cần phải chú ý đến đoạn kinh văn này!

“Là tâm Không Quán.” Chúng ta cần phải quán tưởng về tánh “không” của tất cả các pháp. Có “không quán,” thấy được các pháp đều là “không,” thì quý vị sẽ không còn chấp trước gì nữa cả.

“Là tâm Cung Kính.” Quý vị nên hiền từ, hòa nhã, có lòng cung kính đối với mọi người. Hãy xem tất cả chúng sanh đều là Phật, và vì thế mình phải sanh tâm cung kính đối với họ.

“Là tâm Tỳ Hạ.” Tâm tỳ hạ tức là lòng khiêm cung, nhún nhường mà kính cẩn. Chúng ta nên luôn luôn giữ lòng khiêm cung đối với mọi người, chứ đừng sanh tâm cống cao ngã mạn.

“Là tâm Vô Tạp Loạn.” Quý vị không nên có cuồng tâm dã tánh, không nên có cái tâm tạp loạn.

“Là tâm Vô Kiến Thủ.” Khi quý vị trông thấy sự vật thì trong lòng liền mê chấp, sanh khởi kiến hoặc; hễ có kiến hoặc tất có sự chấp giữ (sở thủ).

“Là tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Quý vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì đó chính là Chú Đại Bi; nếu quý vị không có Đạo tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì không phải là niệm Chú Đại Bi vậy.

“Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy Ông nên y theo đó mà tu hành.” Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông phải biết rằng mười cái tâm kể trên—tâm Đại Từ Bi, tâm Bình Đẳng, tâm Vô Vi, tâm Vô Nhiễm Trước, tâm Không Quán, tâm Cung Kính, tâm Tỳ Hạ, tâm Vô Tạp Loạn, tâm Vô Kiến Thủ, và tâm Vô Thượng Bồ Đề—chính là tướng mạo của Chú Đại Bi. Các Ông hãy y chiếu theo mười thứ tâm này để tu hành và trì tụng Chú Đại Bi.”

Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết như thế, Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Tất cả chúng tôi trong Pháp Hội nhờ được nghe Ngài, bậc Đại-sĩ Đại Bồ-tát, thuyết giảng nên mới nhận thức được tướng mạo của pháp môn Tổng Trì này. Từ nay chúng tôi xin thọ trì, và phát nguyện rằng bắt đầu từ hôm nay chúng tôi sẽ tụng trì Thần Chú Đại Bi—chương cú thần diệu Đại Bi Tâm Đà-La-Ni—chẳng dám quên lãng!

Vì sao ư? Vì pháp môn này đích thực là:

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

Một pháp môn cao siêu, vi diệu thì rất là khó tìm, khó được gặp; thế mà nay:

Ngã đẳng kiến văn đắc thọ trì.

Bây giờ, chúng ta không chỉ may mắn được nghe, được thấy, mà còn được thọ trì nữa! Vì thế, chúng ta phải:

Nguyện giải vô thượng chân thật nghĩa.

Vậy, mỗi người trong chúng ta cần phải phát nguyện hiểu được pháp yếu vô thượng này, lãnh hội được diệu lý chân thật này, và vĩnh viễn không bao giờ dám lãng quên.

Đại Phạm Thiên Vương có bản lãnh lớn lao như thế, thong dong tự tại như thế, mà nghe được Chú Đại Bi rồi còn hứa là chẳng dám quên, huống hồ là chúng ta? Nếu quý vị thờ ơ lãnh đạm, tùy tiện bỏ qua, không lo trì niệm, bỏ quên Chú Đại Bi tuốt ngoài chín tầng mây, cách xa tới mười vạn tám ngàn dặm, thì đến lúc quý vị muốn tìm lại, e rằng không dễ gì còn tìm thấy được nữa!

Kinh Văn:

QUÁN THẾ ÂM NGÔN: “NHƯỢC THIỆN NAM TỬ, THIỆN NỮ NHÂN, TỤNG TRÌ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, PHÁT QUẢNG ĐẠI BỒ-ĐỀ TÂM THỆ ĐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, THÂN TRÌ TRAI GIỚI, Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI BÌNH ĐẲNG TÂM, THƯỜNG TỤNG THỬ CHÚ MẠC LỆNH ĐOẠN TUYỆT, TRÚ Ư TỊNH THẤT, THÁO DỤC THANH TỊNH, TRƯỚC TỊNH Y PHỤC, HUYỀN PHAN NHIÊN ĐĂNG, HƯƠNG HOA BÁCH VỊ ẨM THỰC DĨ DỤNG CÚNG DƯỜNG, CHẾ TÂM NHẤT XỨ CÁNH MẠC DỊ DUYÊN, NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ, THỊ THỜI ĐƯƠNG HỮU NHẬT QUANG BỒ-TÁT, NGUYỆT QUANG BỒ-TÁT, DỮ VÔ LƯỢNG THẦN TIÊN, LAI VI TÁC CHỨNG ÍCH KỲ HIỆU NGHIỆM.”

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì tụng Thần Chú này phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh, thân trì trai giới, đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn. Lại nên ở chốn tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết, treo phướn đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường, kềm tâm một chỗ, chớ theo dị duyên, trì tụng đúng Pháp. Lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.”

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì tụng Thần Chú này, phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh.” Người trì tụng Chú Đại Bi không nên có tâm lượng nhỏ hẹp, không nên có lòng ích kỷ, không nên có lòng mưu lợi riêng tư, không nên có lòng đố kỵ, không nên có tâm chướng ngại; mà cần phải phát huy cái tâm Bồ-đề bao la—cái tâm giác ngộ rộng lớn—và phải phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh đều được xa lìa khổ não, hưởng sự an vui.

Lại nữa, người ấy cần phải “thân trì trai giới,” phải giữ chay tịnh và phải thọ trì Ngũ Giới—không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; đồng thời phải “đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng,” xem muôn loài chúng sanh đều như nhau.

“Thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn.” Chúng ta cần phải tụng Chú Đại Bi thật đều đặn, liên tục, không được gián đoạn. Nếu quý vị tùy tiện chỉ tụng một chốc lát rồi nghỉ, nghỉ ngơi chán rồi mới tụng tiếp, như thế là làm cho Chú bị gián đoạn, không được liên tục.

“Lại nên ở chốn tịnh thất.” Lại nữa, người trì tụng Chú Đại Bi cần phải sống ở nơi thanh tịnh, chẳng có pháp nhiễm ô; đồng thời phải thường xuyên “tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết.” 

Do đó, chúng ta tốt nhất là đừng mặc những y phục và giày vớ dành cho lúc tụng Kinh lạy Phật khi vào nhà vệ sinh. Tuy rằng nhà vệ sinh cũng rất sạch sẽ, nhưng dù sao thì đó cũng là nơi để phóng uế; cho nên đến nhà vệ sinh thì phải cởi áo Giới và áo tràng ra, và thay giày dép khác nữa. Trước đây tôi đã kể cho quý vị nghe rồi: Ấn Quang Lão Pháp Sư mỗi lần vào nhà vệ sinh là Ngài đều thay quần áo và giày vớ khác; rồi khi dùng nhà vệ sinh xong thì Ngài lại thay đồ, mặc lại y bào. Trong suốt mười tám năm sống ở núi Phổ Đà, Ngài luôn luôn giữ nếp hành trì như thế. Người chân chánh trì giữ Giới Luật thì ngay cả những sai trái nhỏ nhặt nhất, vi tế nhất, họ cũng không hề vi phạm. Vì thế, quý vị cần phải nhớ kỹ: Phải cởi y bào và thay giày dép khác trước khi vào nhà vệ sinh—tuyệt đối không được mặc Giới y và áo tràng mà vào nhà vệ sinh!

“Treo phướn, đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường.” Kế đến, người thiện nam tín nữ đó nên treo phướn lên cao và thắp đèn cho sáng; đồng thời sắm sửa hương thơm, các loại hoa muôn màu muôn sắc, cùng đồ ăn thức uống đủ mùi đủ vị để cúng dường Tam Bảo.

“Kềm tâm ở một chỗ, chớ theo dị duyên.” Quý vị phải kiềm giữ cái tâm mình ở một chỗ, trong lòng không sanh vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm, và cũng đừng xen vào những duyên sự khác. “Chớ theo dị duyên” tức là không phan duyên, tâm trí không vướng mắc, không nghĩ ngợi những sự việc khác nữa.

“Trì tụng đúng Pháp.” Nếu người thiện tín đó y chiếu theo phương pháp và những chỉ dẫn trên đây mà tụng trì Chú Đại Bi, thì “lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.” 

Nhật Quang Bồ-tát và Nguyệt Quang Bồ-tát là hai vị Bồ-tát phát nguyện hộ trì Chú Đại Bi đắc lực nhất—hễ người nào trì niệm Chú Đại Bi thì hai vị Bồ-tát này sẽ phù hộ, che chở người đó từng giây từng phút. Bấy giờ, ngoài hai vị Bồ-tát Nhật Quang và Nguyệt Quang ra, còn có vô lượng vô biên thần tiên khác cũng đến để chứng giám cho người thiện tín đó: “Ừ, có người đang trì tụng Chú Đại Bi ở đây, vậy ta phải đến phù hộ cho người đó mới được!”; và khiến cho những mong cầu của người tụng Chú đều được hiệu nghiệm.
“Hiệu nghiệm,” cũng gọi là “ứng nghiệm,” hoặc “linh nghiệm,” tức là đạt được sự linh ứng thiêng liêng, mầu nhiệm.

Kinh Văn:

“NGÃ THỜI ĐƯƠNG DĨ THIÊN NHÃN CHIẾU KIẾN THIÊN THỦ HỘ TRÌ, TÙNG THỊ DĨ VÃNG SỞ HỮU THẾ GIAN KINH THƯ TẤT NĂNG THỌ TRÌ, NHẤT THIẾT NGOẠI ĐẠO PHÁP THUẬT, PHỆ-ĐÀ ĐIỂN TỊCH, DIỆC NĂNG THÔNG ĐẠT. 
TỤNG TRÌ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, THẾ GIAN BÁT VẠN TỨ THIÊN CHỦNG BỆNH TẤT GIAI TRỊ CHI, VÔ BẤT SI GIẢ; DIỆC NĂNG SỬ LỆNH NHẤT THIẾT QUỶ THẦN, HÀNG CHƯ THIÊN MA, CHẾ CHƯ NGOẠI ĐẠO.”

Nghĩa: “Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì, làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ trì tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng trì Thần Chú này thì có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi; lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần, hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo.”

Lược giảng:

“Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì.” Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Lúc ấy, Ta sẽ dùng một ngàn con mắt để dõi theo và duỗi một ngàn cánh tay ra để che chở, hộ trì người tụng Chú Đại Bi đó. Chẳng những thế, Ta còn làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ trì tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà —kinh điển của ngoại đạo—cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng trì Thần Chú này thì có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi.

Thế gian này có tới tám vạn bốn ngàn thứ bệnh mà Chú Đại Bi đều có thể trị lành được tất cả. Bất luận là bị cancer hoặc mắc phải bệnh gì đi nữa, nếu quý vị thành tâm thiết tha tụng niệm Chú Đại Bi thì đều được khỏi bệnh. Những bệnh nan y, bất cứ thuốc men gì cũng không chữa trị được, thì Chú Đại Bi đều có thể trị lành được; vì thế mà nói là “vô bất si giả” (chẳng bệnh nào không khỏi.)

Trong câu “vô bất si giả,” chữ “si” hàm ý lành bệnh, khỏi bệnh. Theo Hán tự, chữ “si” này nếu có thêm chữ “bệnh” đứng bên cạnh thì thành ra chữ “sái,” có nghĩa là lành bệnh, hết bệnh. Như vậy, câu trên sẽ là “vô bất sái giả,” và ngụ ý là chẳng có bệnh nào mà không thuyên giảm, chẳng có bệnh nào mà không trị lành cả!

Ngoài ra, người trì tụng Chú Đại Bi “lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần.” “Sai khiến được tất cả quỷ thần” là thế nào? Tức là người ấy bảo làm việc gì thì các quỷ thần liền răm rắp làm việc đó, bảo đi đâu thì lập tức đi đấy. Chẳng những thế, người ấy còn có thể “hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo” nữa.

Kinh Văn:

NHƯỢC TẠI SƠN DÃ, TỤNG KINH TỌA THIỀN, HỮU CHƯ SƠN TINH TẠP MỊ VỌNG LƯỢNG QUỶ THẦN, HOẠNH TƯƠNG NÃO LOẠN, TÂM BẤT AN ĐỊNH GIẢ, TỤNG THỬ CHÚ NHẤT BIẾN, THỊ CHƯ QUỶ THẦN TẤT GIAI BỊ PHƯỢC DÃ.”

Nghĩa: “Nếu ở chốn sơn dã tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần, hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định, tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.”

Lược giảng:

“Nếu ở chốn sơn dã tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần, hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định...” Giả sử quý vị sống ở chốn núi non vắng vẻ, không người lai vãng, mà tụng Kinh hay ngồi Thiền, thì thường có các quỷ thần như sơn yêu thủy quái, ly mị vọng lượng đến quấy nhiễu, tác oai tác quái, khiến cho quý vị bị loạn tâm. Bấy giờ, nghĩ đến việc tụng Kinh thì quý vị cảm thấy rất phiền muộn, chán chường: “Tụng Kinh để làm gì kia chứ?”; hoặc muốn ngồi Thiền nhưng vừa ngồi xuống thì vọng tưởng lại mon men dấy lên: “Ngồi thế này thật không thoải mái chút nào. Hết đau chân thì lại mỏi lưng mỏi cổ, ê ẩm cả người. Ui chao, thôi đứng dậy quách cho rồi!” 

Vì sao lại như thế? Đó là vì quý vị bị chúng ma tới quấy nhiễu, chọc phá, làm cho quý vị thấy trong lòng bứt rứt xốn xang, không thể nào ngồi yên được. Chúng lại tỉ tê dụ dỗ: “Ngồi Thiền để làm gì? Thôi, đừng tu hành nữa, theo bọn tôi đi chơi đi, ngoài kia có nhiều trò vui chơi náo nhiệt lắm! Bạn ở đây thì phải nào là tụng Kinh, nào là ngồi Thiền, lại còn phải tuân theo đủ các thứ quy củ luật lệ rắc rối nữa, chẳng thú vị gì cả! Hãy mau mau nhập bọn làm quyến thuộc với chúng tôi đi! Xem kìa, thế giới của chúng ta thật là nhộn nhịp v.v...” 

Ma Vương còn có thể xui khiến quý vị sanh khởi những vọng tưởng như: “Nam nữ hành dâm là không thành vấn đề.” Chúng ma là những kẻ phá hoại, chúng đến cốt để phá hoại Định tâm, phá hoại Giới tâm và phá hoại Huệ tâm của quý vị, làm cho Giới Định Huệ của quý vị đều tiêu tan.

Muốn tu hành theo Bồ-tát Đạo thì quý vị cần phải có mười thứ tâm; thế nhưng hễ bị Ma Vương quấy phá thì mười thứ tâm ấy liền bị lung lay, không thể an trụ vững vàng được nữa! Bấy giờ, tâm quý vị vốn “trụ” ở đức Tín song nay thì tín tâm không còn nữa; mà không có tín tâm thì sẽ sanh lòng “bất tín.” 

Quý vị muốn giữ tâm trì niệm, nhớ nghĩ—muốn chuyên chú tụng Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng—thì Ma Vương lại xui khiến quý vị trở nên ngần ngừ do dự: “Thôi, đi ngủ một giấc cho khỏe!” Và như thế là cái lòng niệm tưởng của quý vị cũng tiêu tan.


Niệm tâm” không có thì lòng tinh tấn cũng chẳng còn, quý vị không còn hăng hái tu học nữa: “Có chắc là tu hành thì sẽ thành Phật được hay không? Biết đâu đó chỉ là chuyện hoang đường, không đáng tin?” Và thế là cái tâm tinh tấn này cũng chẳng “trụ” được nữa.

Tâm Tinh Tấn không “trụ” thì không có tâm trí huệ—Huệ Tâm cũng chẳng “trụ” được.

Huệ Tâm không “trụ” thì không có Định Tâm—Định Tâm cũng chẳng “trụ” được.

Định không “trụ” thì không có Tâm Bất Thối—“bất thối tâm” liền biến thành “thối tâm.” Hễ sanh tâm thối chuyển thì sẽ không còn lòng hộ trì Phật Pháp; bấy giờ quý vị sẽ khởi những vọng tưởng như: “Mình cần gì phải cúng dường Tam Bảo? Để Tam Bảo cúng dường cho mình chẳng tốt hơn ư?” Như có những cư sĩ đòi hỏi Tam Bảo phải hộ pháp cho họ, đó cũng là điển hình của trường hợp tâm Hộ Pháp không “trụ” vậy.

Tâm Hộ Pháp không “trụ” thì tâm hồi hướng cũng không “trụ”—không có tâm hồi hướng.

Tâm Hồi Hướng không có thì Giới Tâm cũng chẳng “trụ,” quý vị cũng chẳng còn chú ý thọ trì Giới Luật nữa.

Và cuối cùng là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa; thế thì còn phát nguyện gì nữa? Bấy giờ quý vị sẽ nghĩ ngợi lẩn thẩn: “Tôi không phát nguyện, không hứa hẹn điều gì cả. Tôi muốn thế nào thì cứ thế ấy, tự do biết bao! Tội gì lập nguyện rồi chính mình lại bị ràng buộc bởi lời nguyện đó? Như thế thì gò bó quá, mất tự do nhiều quá!” Thế là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa.

Như vậy, mười “trụ tâm” biến thành mười “bất trụ tâm.” Vì sao quý vị lại có mười “bất trụ tâm” ư? Đó là do sự phá hoại của Ma Vương! Ma Vương chui luồn len lỏi vào mọi ngỏ ngách trong tâm quý vị, khiến tư tưởng của quý vị có sự biến chuyển.

“Tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.” Nếu quý vị gặp phải tình trạng như trên, trong lòng cảm thấy phiền não, bứt rứt rối loạn, đó là bởi Ma Vương muốn phá hoại quý vị; bấy giờ, quý vị hãy tụng Chú Đại Bi một biến, tức thì các quỷ thần và Ma Vương sẽ bị tóm bắt và trói gô lại.

Kinh Văn:

“NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI TỪ BI TÂM GIẢ, NGÃ THỜI ĐƯƠNG SẮC NHẤT THIẾT THIỆN THẦN, LONG VƯƠNG, KIM CANG MẬT TÍCH, THƯỜNG TÙY VỆ HỘ, BẤT LY KỲ TRẮC, NHƯ HỘ NHÃN TINH, NHƯ HỘ KỶ MẠNG.”

Nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình, như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.” 

Lược giảng:


Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp... ” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp gì? Đó là pháp “Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn”—pháp môn Bốn Mươi Hai Bàn Tay! Quý vị phải biết rằng: Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi vì quý vị cần phải hiểu rõ mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.

“Y pháp thọ trì” tức là tu tập và hành trì đúng theo những gì đã dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mách từ “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Lị Da...” cho đến hết bài Chú Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quý vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền dạy một cách đúng đắn thì mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, thì chẳng thể nào hiểu nổi!

Vậy, nếu người trì tụng Chú Đại Bi chẳng những trì tụng đúng theo giáo pháp mà còn có thể “đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình.” Ở đây, “Ta” tức là tiếng tự xưng của Quán Thế Âm Bồ-tát; Ngài nói rằng: “Lúc bấy giờ, Ta—Quán Thế Âm Bồ-tát—sẽ ra lệnh cho chư vị Thiện Thần, Long Vương, Hộ Pháp Kim Cang, Mật Tích Bồ-tát, phải luôn luôn theo sát bên mình người trì tụng Chú Đại Bi ấy.” Như vậy tức là có tám vạn bốn ngàn vị Kim Cang Tạng Bồ-tát thường xuyên sát cánh, kề cận bên mình người đó để bảo vệ.

Do đó, những người tụng trì Đại Bi Chú, tu trì Đại Bi Pháp, cần phải nhớ là không nên sanh dục niệm, chớ khởi những vọng tưởng về desire; bởi chư Hộ Pháp Thiện Thần đều theo sát bên quý vị, mà nếu tâm trí quý vị cứ lởn vởn thứ vọng tưởng đó, thì các ngài nhận thấy: “Tên này thật là tệ, chẳng giữ gìn quy củ gì cả! Thôi, ta không muốn che chở, bảo vệ hắn nữa!”

Cho nên, quý vị tu pháp thì không được sanh vọng tưởng, không được mơ mộng nhớ nhung cô girlfriend này hay cậu boyfriend nọ! Nếu quý vị cứ mơ tưởng vẩn vơ như thế, Kim Cang Tạng Bồ-tát sẽ phải lấy bảo chùy đánh cho quý vị thức tỉnh, và quý vị nếu không đau đầu thì cũng nhức mình nhức mẩy. Cho nên, nếu quý vị bị nhức đầu hoặc cơ thể cảm thấy đau đớn khó chịu, đó có thể là do bị Kim Cang Tạng Bồ-tát trừng phạt đấy; Ngài bảo: “Nhà ngươi thật là tồi tệ, chẳng tuân giữ quy củ gì cả! Hư hỏng quá sức!” 

Cho nên, quý vị cần phải thận trọng hơn, đừng bê bối cẩu thả nữa—không được một mặt thì tụng Chú Đại Bi, mặt khác lại khởi tà tri tà kiến, dấy sanh vọng tưởng! Hễ tâm quý vị vừa dấy động thì chư Bồ-tát Hộ Pháp lập tức biết được ngay; bởi các Ngài có Ngũ Nhãn Lục Thông, có thể thấy tường tận được con người của quý vị từ ngoài vào trong như nhìn xuyên qua lớp thủy tinh trong suốt vậy!

Quý vị chớ tưởng rằng: “Vô lý, các Ngài làm sao biết được những ý nghĩ thầm kín của tôi?” Nếu các Ngài không biết, thì các Ngài đã không được tôn xưng là Phật, là Bồ-tát, là Hộ Pháp! Thế nên, quý vị chớ hoài công đánh lừa các ngài vô ích. Quý vị không được có lòng cầu may hoặc lừng khừng: “Không sao đâu! Chỉ là vọng tưởng trong đầu mà thôi, đâu thành vấn đề!” Quý vị phải biết, cái vọng tưởng này vừa dấy khởi thì tâm quý vị liền trở thành tâm nhiễm ô chứ không phải là tâm Đại Bi nữa!

“Như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.” Chư vị Hộ Pháp sẽ che chở bảo vệ người trì Chú Đại Bi chẳng khác nào bảo vệ đôi mắt hoặc sanh mạng của chính các Ngài vậy.

Kinh Văn:

THUYẾT KỆ SẮC VIẾT:
“NGÃ KHIỂN MẬT TÍCH KIM CANG SĨ,
Ô SÔ QUÂN TRÀ ƯƠNG CÂU THI,
BÁT BỘ LỰC SĨ THƯỞNG CA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN MA HÊ NA LA DIÊN,
KIM TỲ LA ĐÀ CA TỲ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN BÀ CẤP TA LÂU LA,
MÃN THIỆN XA BÁT CHÂN ĐÀ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN TÁT GIÁ MA HÒA LA,
CƯU LAN ĐAN TRA BÁN CHỈ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN TẤT BÀ GIÀ LA VƯƠNG,
ƯNG ĐỨC TỲ ĐA TÁT HÒA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.”

Nghĩa: 

Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng:
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,
Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi,
Bát Bộ Lực sĩ Thưởng Ca La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Ma Hê Na La Diên,
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La,
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,
Cưu Lan Đan Tra Bán Chỉ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Tất Bà Già La Vương,
Ưng Đức Tỳ Đa Tát Hòa La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” 

Lược Giảng:


Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng: ... Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói một bài kệ, ra lệnh cho tất cả các Thiện Thần đều phải che chở, ủng hộ người thọ trì Chú Đại Bi.

“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,/ Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi.” Đây là tên của các vị Kim Cang Hộ Pháp. Mỗi vị Kim Cang đều có thần lực riêng của mình. Có câu “ai có sở trường nấy”—chư vị Hộ Pháp cũng vậy, vị nào cũng có sở trường hoặc đặc điểm của vị ấy.

Thí dụ, có vị Hộ Pháp thì phát nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng Chú Đại Bi được một trăm lẻ tám (108) biến, thì tôi sẽ thường xuyên túc trực để ủng hộ người đó; cho dù phải hy sinh tánh mạng, tôi cũng quyết bảo vệ người trì Chú ấy cho bằng được!”

Trong khi đó, có vị lại nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng được dù chỉ một chữ hoặc một câu của Chú Đại Bi, thì tôi sẽ vĩnh viễn ủng hộ và bảo vệ người đó!”

Cũng có vị Hộ Pháp nguyện rằng: “Nếu có người nào, đừng nói là tụng Chú Đại Bi, cho dù chỉ nghe được danh hiệu ‘Chú Đại Bi’ thôi, thì tôi nguyện sẽ bảo vệ và khiến cho mọi điều mong cầu của người đó đều được thành tựu, muốn gì được nấy.”

Tuy rằng mỗi vị Kim Cang Hộ Pháp đều lập một lời thệ nguyện khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều cùng chung một mục đích—đó là gì? Đó là ủng hộ người trì Chú Đại Bi, ủng hộ người nghe Chú Đại Bi, ủng hộ người có tín tâm chân chánh đối với Chú Đại Bi.

Trong Kinh có nói rằng, nếu chúng ta “còn sanh chút lòng nghi, ắt không được kết quả toại nguyện”; cho nên, nếu quý vị không có tín tâm đối với Chú Đại Bi, thì quý vị sẽ không thể có được sự thành tựu. 

Có người nói rằng: “Tôi tụng Chú rất nhiều mà sao chẳng thấy linh nghiệm, chẳng thấy công hiệu gì cả?” Đó không phải là do Chú không công hiệu, mà là vì quý vị thiếu đức tin, thiếu thành khẩn, đầu óc lúc nào cũng lởn vởn những ý tưởng hoài nghi: “Tại sao không linh nghiệm? Tại sao không thấy có công hiệu gì cả?”; vì thế mà công hiệu gì, linh nghiệm gì cũng đều không xảy ra cả! Cho nên, nếu muốn có được sự cảm ứng chân chánh thì thâm tâm quý vị phải hoàn toàn không còn mảy may hoài nghi. 

Đúng ra, nếu tụng Chú Đại Bi mà không thấy hiệu nghiệm thì quý vị phải hồi quang phản chiếu, tự hỏi chính mình: “Ồ! Phải chăng vì mình thiếu thành tâm, nên mới không đạt được sự tương ưng với năng lực bất khả tư nghì của Chú?”
Quý vị không được nói rằng: “Chú Đại Bi không linh nghiệm, những điều giảng nói trong Chú đều là hoang đường, không có thật!” Chúng ta tuyệt đối không được có lòng hoài nghi như thế!

Quán Thế Âm Bồ-tát nói rằng: “Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ.” “Sai” tức là sai khiến, ra lệnh. Gọi là “mật tích” (hành tung bí mật, kín đáo) bởi lẽ cho dù những vị Kim Cang Hộ Pháp này đứng ngay bên cạnh quý vị, quý vị cũng không nhìn thấy được và cũng chẳng hề hay biết. Tất cả các vị Kim Cang Lực Sĩ đều có sức mạnh phi thường. 

“Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi” là tên của các vị Hộ Pháp phiên âm từ tiếng Phạn và vẫn được giữ nguyên như thế trong bài Chú chứ không phiên dịch ra, cho nên bây giờ chúng ta cũng không cần phải giải thích ý nghĩa của những tên gọi đó. Quý vị chỉ cần nhớ rằng đó là các vị Kim Cang Hộ Pháp đến để bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi, như vậy là đủ rồi! Bởi Kim Cang Tạng Bồ-tát có tới tám vạn bốn ngàn vị, rất đông đảo chứ không phải chỉ có mấy vị trên đây mà thôi đâu! Cho nên, những tên gọi này, nếu quý vị không hiểu thì cũng không sao!

“Bát Bộ Lực Sĩ Thưởng Ca La.” “Bát Bộ” tức là Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, cùng tám bộ chúng. “Thưởng Ca La” là tên của một vị Lực-sĩ thuộc Bát Bộ.

“Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Những vị Hộ Pháp kể trên đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải luôn luôn bảo vệ, trợ giúp những người trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Ma Hê Na La Diên.” “Ma Hê Na La Diên” chính là thiên chúng của cõi trời Ma Hê Thủ La. “Na La Diên” có nơi dịch là “đại mãng xà”; tuy nhiên, bất kể đó là ai, nói chung thì tất cả đều cùng một mục đích là hộ Pháp mà thôi.

Quán Thế Âm Bồ-tát cũng phái Ma Hê Na La Diên, cùng với các vị Hộ Pháp như “Kim Tỳ La Đà, Ca Tỳ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

“Ta sai Bà Cấp, Ta Lâu La.” Quán Thế Âm Bồ-tát lại nói tiếp: “Không phải chỉ có các Kim Cang Lực-sĩ nói trên mà thôi đâu, Ta còn ban sắc lệnh, khiến các Kim Cang Lực-sĩ, Thiện Thần Hộ Pháp là Bà Cấp, Ta Lâu La, Mãn Thiện, Xa Bát, Chân Đà La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì. Họ sẽ luôn luôn kề cận để bảo vệ và giúp đỡ những người trì Chú Đại Bi.”

“Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,/ Cưu Lan, Đan Tra, Bán Chỉ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Đan Tra” chính là vị “Ca Tra” được nhắc đến ở câu “Ca Tra Bổ Đan Na” trong Chú Lăng Nghiêm. Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải theo dõi để bảo vệ kẻ trì Chú Đại Bi.

“Ta sai Tất Bà, Già La Vương,/ Ưng Đức, Tỳ Đa Tát Hòa La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì,.” Đây là tên của các vị quỷ vương hoặc thần vương. Các vị này cũng được lệnh phải thường xuyên kề cận để che chở cho những kẻ thọ trì, tụng niệm Chú Đại Bi.

Kinh Văn:

“NGÃ KHIỂN PHẠM MA TAM BÁT LA,
NGŨ BỘ TỊNH CƯ DIÊM MA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN THÍCH VƯƠNG TAM THẬP TAM,
ĐẠI BIỆN CÔNG ĐỨC BÀ ĐÁT NA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN ĐỀ ĐẦU LẠI TRA VƯƠNG,
THẦN MẪU NỮ ĐẲNG ĐẠI LỰC CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

Nghĩa:
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,
Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Lược Giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,/ Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

“Phạm Ma Tam Bát La” là tên của một vị Hộ Pháp ở cõi trời; còn “Diêm Ma La” là tên của vị Hộ Pháp thuộc Ngũ Bộ ở cung trời Tịnh Cư. Các vị Hộ Pháp này được lệnh phải luôn luôn theo bảo vệ kẻ tụng trì Chú Đại Bi.

“Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,/ Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

“Thích Vương” tức là vua Đế Thích, Thiên Chủ của cõi trời Ba Mươi Ba.

“Đại Biện Công Đức Bà Đát Na” tức là vị Hộ Pháp có tài biện luận và công đức rộng lớn tên Bà Đát Na. 

Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được Quán Thế Âm Bồ-tát phái đi phù hộ những người thành tâm trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,/ Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” 

“Đề Đầu Lại Tra Vương” là một trong bốn vị Tứ Đại Thiên Vương.

“Thần Mẫu Nữ” tức là “Quỷ Tử Mẫu” (mẹ của những quỷ con), thống lãnh bộ chúng Đại Lực—các quỷ thần thuộc hạ của bà đều có sức mạnh phi thường, riêng bản thân bà thì không.

Vì sao gọi là “Quỷ Tử Mẫu”? Ban đầu, đáng lẽ bà có thể được gọi là “Thần Tử Mẫu,” nhưng vì bà có hành vi giống như loài quỷ—cứ đi bắt cóc con của người ta để ăn thịt—nên mới bị gọi là “Quỷ Tử Mẫu.” Nhà nào có trẻ sơ sinh là Quỷ Tử Mẫu liền tới bắt về ăn; cả trẻ con chừng hai, ba tuổi cũng bị bà bắt ăn thịt nữa. Bà Quỷ Tử Mẫu có một ngàn (1.000) đứa con trai; những đứa con nít mà bà đi khắp nơi để lùng bắt và mang về không phải chỉ một mình bà mà cả bầy quỷ con cùng xúm lại chia nhau ăn.

Một hôm, chư Hộ Pháp Thiện Thần thấy hành vi của Quỷ Tử Mẫu càng ngày càng quá đáng và không đúng với giáo pháp, bèn quyết định đến bạch với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch Đức Thế Tôn! Hiện nay trẻ con ở thế gian bị Quỷ Tử Mẫu bắt ăn thịt gần hết, chỉ còn lại một số rất ít! Nhân loại ở thế gian sắp bị tuyệt chủng tới nơi rồi; vậy chúng con phải làm gì bây giờ?”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Không sao, việc này không phải là một vấn đề to tát lắm! Ta đã có cách giải quyết rồi!” Và thế là Đức Phật phái Mật Tích Kim Cang đi bắt đứa nhỏ nhất trong bầy quỷ con một ngàn đứa của Quỷ Tử Mẫu về và đem bỏ vào trong bình bát của Phật. Đức Phật lật úp cái bát lại, khiến đứa nhỏ bị nhốt trong bát, không thoát ra được. 
Chú quỷ con bị nhốt một mình trong bát thì sợ hãi khóc òa, Quỷ Tử Mẫu nghe tiếng khóc liền nhận ra đó là tiếng đứa con út của mình, bèn ra lệnh cho chín trăm chín mươi chín (999) đứa con còn lại đến hè nhau nhấc cái bát lên cho chú quỷ út chạy ra, nhưng không thể nào nhấc lên nổi. Thấy thế, Quỷ Tử Mẫu bèn dùng sức thần thông để lật ngửa cái bát lên, song cái bát vẫn chẳng chịu nhúc nhích.

Ban đầu Quỷ Tử Mẫu chỉ nghĩ là lén cướp lại đứa con mà thôi, nhưng bây giờ thấy cướp không được thì chỉ còn cách tới hỏi thẳng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Tại sao Ngài lại bắt cóc con tôi và nhốt nó dưới bình bát của Ngài như thế? Chao ôi! Nó khóc lóc thảm thiết thế kia mà Ngài chẳng động chút lòng từ bi nào cả ư?”

Quý vị xem, bà Quỷ Tử Mẫu này dám chỉ trích người khác là không có lòng từ bi; thế còn bà ăn thịt con của người ta thì thử hỏi bản thân bà có được chút lòng từ bi nào chăng?

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới từ tốn hỏi lại: “À! Ngươi có đông con thế kia thì mất đi một đứa cũng chẳng hề chi! Ngươi có tới một ngàn đứa con lận, nếu bớt đi một đứa bé này thì có sao đâu?”

Quỷ Tử Mẫu đáp: “Không được! Tôi thì một đứa cũng không thể thiếu được!”

Đức Phật ôn tồn hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta, thế thì ngươi có lòng từ bi chăng?”

Quỷ Tử Mẫu phân trần: “Tôi nào muốn như thế đâu! Ngài cho rằng tôi thích ăn thịt con nít lắm sao? Nếu không ăn thì cái thân già nua này chịu đói không nổi! Bởi thịt trẻ con thì mềm mại, thơm ngon vô cùng, mà răng của tôi thì cũng không còn tốt cho lắm, cho nên tôi mới phải ăn thịt của chúng đấy thôi!”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta thì được, còn Ta mới bắt một đứa con út của ngươi thôi mà ngươi đã đau khổ, cuống quýt đến thế kia! Vậy thì ngươi nghĩ tâm trạng của những kẻ làm cha làm mẹ trong thiên hạ mà bị mất con là như thế nào?”

Quỷ Tử Mẫu vẫn bướng bỉnh: “Tôi đâu cần phải bận tâm về họ nhiều như thế! Tôi chỉ lo ăn cho no bụng mình là đủ rồi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghiêm giọng phán: “Thế ư? Nếu thế thì Ta cũng chẳng bận tâm về chuyện của ngươi nữa! Ta chẳng cần biết là ngươi có bị mất con hay không! Ngươi có bản lãnh thì cứ đem nó về đi!”

Quỷ Tử Mẫu nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế thì lại tìm cách lật bát, nhưng không tài nào lật lên được. Chẳng còn cách nào khác, Quỷ Tử Mẫu bèn đến quỳ trước mặt Đức Phật mà khóc lóc năn nỉ, thỉnh cầu Ngài mở lòng từ bi mà thả con bà ra.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Được! Ngươi muốn Ta trả đứa con lại cho ngươi, thì cũng được thôi! Ta không ăn thịt con của ngươi đâu, bởi vì Ta không giống như ngươi—Ta chỉ ăn chay, cho nên, đừng nói là thịt người lớn hay con nít, bất cứ loại thịt nào Ta cũng không ăn cả!”

Quỷ Tử Mẫu nghe nói như thế thì tự nghĩ: “Ồ! Thì ra người này không ăn thịt!”; và thắc mắc: “Thế thì Ngài làm sao sống được?”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: “Ta đi hóa duyên các nơi, xin thức ăn chay.”

Quỷ Tử Mẫu nói: “Thế nhưng tôi biết đi đâu để hóa duyên? Ngài là Phật nên có thể đi hóa duyên; còn tôi thì đâu làm như thế được. Tôi nào phải là người xuất gia!”

Đức Phật nói: “Thôi được! Nếu từ rày về sau ngươi sẵn sàng không ăn thịt trẻ con nữa, thì Ta sẽ bảo các đệ tử của Ta mang thức ăn chay bố thí cho ngươi—miễn sao ngươi không ăn thịt trẻ con nữa là được.”

Quỷ Tử Mẫu hớn hở thưa: “Nếu tôi có thức ăn đầy đủ thì đương nhiên là tôi khỏi ăn thịt trẻ con cũng được.”

Thế là, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thả chú quỷ con ra và trả lại cho Quỷ Tử Mẫu. Do nhân duyên này mà những người xuất gia khi thọ trai đều có lệ “thí thực.” “Thí” là bố thí, ban phát; “thực” là phạn thực, cơm ăn. Lúc thí thực, quý Thầy, Cô dành ra một ít thức ăn và xướng rằng: 

Đại bàng kim xí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La-sát Quỷ Tử Mẫu,
Cam-lồ tất sung mãn.

(Chim đại bàng cánh vàng,
Quỷ thần nơi khoáng dã,
Mẹ con quỷ La-sát,
Đầy đủ nước cam-lồ.)

Rồi họ tụng một bài Chú và mấy mẹ con của bà Quỷ Tử Mẫu thảy đều có được thức ăn no đủ, không còn bị đói khát và do đó không phải ăn thịt con nít nữa. 

Cho nên, chúng ta nhờ không bị Quỷ Tử Mẫu ăn thịt nên bây giờ mới còn sống và lớn lên cao ráo, khỏe mạnh, lại có được cơ hội học hành, làm việc. Nếu không nhờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa được Quỷ Tử Mẫu, thì e rằng nhân loại trên thế giới sẽ không được đông đúc như hiện nay. Ngoài ra, từ đó Quỷ Tử Mẫu chẳng những không ăn thịt con nít mà còn trở thành kẻ hộ Pháp đắc lực cho Phật Giáo nữa.

Vậy, khi có người chuyên tâm và theo đúng như giáo pháp mà trì tụng Chú Đại Bi, thì Quán Thế Âm Bồ-tát gọi Quỷ Tử Mẫu và bảo rằng: “Này Quỷ Tử Mẫu, đã đến lúc ngươi có thể tạo đôi chút công đức rồi đó. Có người đang thọ trì Chú Đại Bi này của Ta, vậy ngươi hãy mau mau đi bảo vệ người ấy.” Thế là Quỷ Tử Mẫu liền thống lãnh một ngàn đứa con trai lực lưỡng, khỏe mạnh, cùng nhau đi hộ Pháp, cho nên nói là “cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

Kinh Văn:

“NGÃ KHIỂN TỲ LÂU LẶC XOA VƯƠNG,
TỲ LÂU BÁC XOA TỲ SA MÔN.
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN KIM SẮC KHỔNG TƯỚC VƯƠNG,
NHỊ THẬP BÁT BỘ ĐẠI TIÊN CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN MA-NI BẠT ĐÀ LA,
TÁN CHI ĐẠI TƯỚNG PHẤT LA BÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN NAN ĐÀ, BẠT NAN ĐÀ,
BÀ GIÀ LA LONG Y BÁT LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN TU LA, CÀN THÁT BÀ,
CA LÂU, KHẨN NA, MA HẦU LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.

NGÃ KHIỂN THỦY HỎA LÔI ĐIỆN THẦN,
CƯU BÀN TRÀ VƯƠNG, TỲ XÁ XÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.”

Nghĩa:
“Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương,
Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương,
Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Ma Ni Bạt Đà La,
Tán Chi Đại Tướng, Phất La Bà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà,
Bà Già La Long, Y Bát La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Tu La, Càn Thát Bà,
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.

Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần,
Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Đây đều là tên của các vị Hộ Pháp Thần Vương của Tứ Đại Thiên Vương. Các vị này từng giây từng khắc theo bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Khổng Tước Vương” chính là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng). “Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng” tức là “nhị thập bát tú”—hai mươi tám vì tinh tú. Lúc giảng Kinh Lăng Nghiêm tôi đã giảng cho quý vị nghe cả rồi.

“Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái Ma Ni Bạt Đà La cùng Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, vốn là những vị Kim Cang Hộ Pháp, đến ủng hộ người trì Chú Đại Bi. 

“Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, Bà Già La Long, Y Bát La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Nan Đà và Bạt Nan Đà đều là những vị Long Vương; còn Bà Già La Long và Y Bát La là Hộ Pháp của Long Vương.

“Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái A Tu La cùng với Nhạc Thần Càn Thát Bà của Ngọc Đế, và luôn cả Ca Lâu Na, Khẩn Na La, Ma Hầu La thuộc Thiên Long Bát Bộ, tất cả phải thường xuyên theo phù hộ người trì tụng Chú Đại Bi.

“Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Thủy, hỏa, lôi điển thần” tức là thủy thần (thần nước), hỏa thần (thần lửa), lôi thần (thần sấm) và điển thần (thần sét). Cưu Bàn Trà và Tỳ Xá Xà vốn là quỷ, nay đều biến thành kẻ hộ pháp và cùng nhau bảo vệ người trì Chú. Cho nên, quý vị chỉ cần niệm Chú Đại Bi thì ngay cả ma cũng đến hộ pháp cho quý vị.

Kinh Văn:

“THỊ CHƯ THIỆN THẦN, CẬP THẦN LONG VƯƠNG, THẦN MẪU NỮ ĐẲNG, CÁC HỮU NGŨ BÁCH QUYẾN THUỘC ĐẠI LỰC DẠ XOA, THƯỜNG TÙY ỦNG HỘ TỤNG TRÌ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ.”

Nghĩa: “Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người trì tụng Thần Chú Đại Bi.”

Lược giảng:

“Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc.” Tất cả các vị thiện thần hộ Pháp kể trên—Thiên Long Bát Bộ, Tứ Thiên Vương, cùng hết thảy long chúng, quỷ chúng, thần chúng, và hết thảy Kim Cang Lực Sĩ, thần Long Vương, thần Mẫu Nữ, ...—mỗi một vị đều có năm trăm quyến thuộc. Những quyến thuộc ấy toàn là quỷ Đại Lực Dạ Xoa và tất cả đều “thường theo ủng hộ người trì tụng Thần Chú Đại Bi.”

Kinh Văn:

“KỲ NHÂN NHƯỢC TẠI KHÔNG SƠN KHOÁNG DÃ, ĐỘC TÚC CÔ MIÊN, THỊ CHƯ THIỆN THẦN, PHIÊN ĐẠI TÚC VỆ, TÍCH TRỪ TAI CHƯỚNG. 
NHƯỢC TẠI THÂM SƠN, MÊ THẤT ĐẠO LỘ, TỤNG THỬ CHÚ CỐ, THIỆN THẦN LONG VƯƠNG, HÓA TÁC THIỆN NHÂN THỊ KỲ CHÁNH ĐẠO. 
NHƯỢC TẠI SƠN LÂM KHOÁNG DÃ, PHẠT THIỂU THỦY HỎA, LONG VƯƠNG HỘ CỐ, HÓA XUẤT THỦY HỎA.”

Nghĩa: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình, các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ, ngăn trừ tai chướng; nếu ở nơi thâm sơn quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về; nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.”

Lược giảng:

Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình...” “Không sơn” tức là nơi vắng vẻ, không có người ở. “Khoáng dã” là nơi rất hoang vu, rất ít người lai vãng. Như vậy, giả sử người trì Chú Đại Bi đó sống đơn độc một mình ở chốn núi rừng hoang vắng để tu hành, thì “các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ.” 
“Thay phiên (phiên đại)” tức là luân phiên, lần lượt thay phiên nhau. Chẳng hạn vị thiện thần này tức trực bảo vệ trong hai tiếng đồng hồ, sau đó có vị khác đến thay thế; vị mới đến này canh gác được hai tiếng đồng hồ thì lại có một vị khác nữa đến gác thay. Hoặc là, vị rồng này đến túc trực bảo vệ được hai giờ đồng hồ thì có vị thần đến bảo: “Hết phiên của ngài rồi, ngài hãy về nghỉ đi. Bây giờ đến lượt tôi bảo vệ người này!” Rồi hai tiếng đồng hồ sau thì có thể là đứa con trai lớn của Quỷ Tử Mẫu xuất hiện và nói: “Hết phiên trực của ngài rồi đấy, chắc ngài cũng tired lắm rồi. Ngài hãy về nghỉ ngơi đi, tôi sẽ ở đây tiếp tục bảo vệ người này!” Đó gọi là “phiên đại túc vệ,” tức là thay phiên nhau túc trực để sẵn sàng bảo vệ người trì Chú Đại Bi.

“Ngăn trừ tai chướng.” Người trì Chú Đại Bi đó nếu có tai nạn gì thì đều được tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, bình an vô sự; nếu có chướng ngại gì thì cũng được hóa giải, không thể xảy ra.

“Nếu ở nơi thâm sơn mà quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về.” Giả sử quý vị đi vào sâu trong núi và bị lạc đường, mất phương hướng, không phân biệt được đông tây nam bắc là đâu với đâu; lại thêm cây cối um tùm rậm rạp che khuất ánh sáng mặt trời, khiến cho quý vị càng thêm hoang mang bối rối, không biết phải theo hướng nào mà đi cho đúng. Bấy giờ, nếu quý vị có thể tụng niệm Chú Đại Bi thì chư thiện thần cùng Long Vương sẽ biến thành người để chỉ đường cho quý vị: “Hãy đi về phía này!” và dẫn đường cho quý vị.

“Nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.” Giả sử người trì tụng Chú Đại Bi phải ở chốn thâm sơn cùng cốc, hoang vu vắng vẻ, chịu thiếu thốn mọi bề, hoàn toàn không có nước và cũng chẳng có lửa, thì Long Vương vì muốn bảo vệ và giúp đỡ người đó, sẽ biến hóa ra nước và lửa cho người đó dùng. 

Bây giờ tôi tổng hợp bài Chú Đại Bi, tóm tắt ý nghĩa toàn bài bằng bốn câu kệ như sau:

Đại Bi Đại Chú thông địa thiên,
Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan,
Đại bi đại từ năng khử bệnh,
Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.

(Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất,
Ngàn ngày trăm biến, mười vua vui,
Đại từ đại bi trừ bệnh tật,
Gương nghiệt soi tới, biển treo cao!)

“Đại Bi Đại Chú thông địa thiên” (Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất). Ở đây có Đại Chú đại từ đại bi, vốn là “Chú trung chi vương” (vua trong các loại Chú), thông thiên triệt địa, suốt trời thấu đất. Một khi quý vị niệm Chú Đại Bi thì các vị thần ở cõi trời đều kính cẩn đến lắng nghe. Cả các loài quỷ cũng vậy, ai nấy đều cung kính chắp tay và quỳ xuống yên lặng lắng nghe quý vị tụng Chú Đại Bi. Vì sao Chú Đại Bi có công năng hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo? Bởi vì bè lũ thiên ma ngoại đạo hễ nghe tới Chú Đại Bi thì chẳng khác nào nhận được hiệu lệnh, tất cả đều phải răm rắp y theo mệnh lệnh mà thi hành.

“Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan” (ngàn ngày trăm biến, mười vua vui). Một ngàn ngày tức là ba năm. Nếu quý vị mỗi ngày có thể tụng Chú Đại Bi đủ một trăm lẻ tám (108) biến, và cứ đều đặn tụng niệm như thế trong ba năm—hoặc là mỗi ngày tụng một ngàn biến và tụng suốt ba năm thì càng tốt hơn nữa—thì Thập Điện Diêm Quân (mười vua Diêm La cai quản mười điện) ở địa ngục sẽ sanh lòng hoan hỷ, và bảo rằng: “Hay lắm! Người này đang tu Chú Đại Bi!” Nếu có thể tu pháp Đại Bi, niệm Chú Đại Bi một trăm lẻ tám biến, đồng thời lại có thể tu pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn nữa, thì sẽ được rất nhiều lợi ích, công hiệu gấp bội,

“Đại bi đại từ năng khử bệnh” (đại từ đại bi trừ bệnh tật). Như tôi đã nói ở phần trước, trên thế gian này có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh, nếu quý vị thành tâm trì niệm Chú Đại Bi thì đều trị lành được cả.

“Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền” (gương nghiệt soi tới, biển treo cao). Trong địa ngục, ở chỗ của Thập Điện Diêm Quân có một đài gương, trên đó đặt một tấm gương soi, gọi là “nghiệt kính đài” (đài gương soi tội). Vì sao gọi là “nghiệt kính đài”? Khi đọa địa ngục, nhìn vào gương soi tội này thì quý vị sẽ thấy hiện lên tất cả những tội nghiệt mà mình đã gây tạo lúc còn sống. Mọi hành vi, việc làm của quý vị đều hiện ra trong gương—rõ ràng từng cảnh mục, từng chi tiết, chẳng khác nào trên màn ảnh xi-nê vậy. Chẳng hạn trước kia quý vị đã từng giết người, thì trong gương sẽ hiện rõ cảnh giết chóc đó. Quý vị hoặc là đã từng ăn trộm ăn cướp, làm điều bất chánh, ăn gian nói dối, rượu chè cờ bạc... nhất nhất mọi hành vi của quý vị trước đây đều hiện ra đầy đủ trong tấm “nghiệt kính,” chẳng sót điều gì.

Nếu quý vị là người trì tụng Chú Đại Bi thì khi dùng nghiệt kính để soi sẽ không thấy hiện lên gì cả, bởi mọi tội nghiệt mà quý vị gây ra đều đã tiêu tan, không còn nữa. Bấy giờ, trong địa ngục sẽ treo cho quý vị một tấm biển, trên đó có viết rằng: “Tất cả quỷ thần đều phải cung kính, tôn trọng người này. Đây là một người thọ trì Chú Đại Bi.” Và đó là ý nghĩa của câu “nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.”


____________Chinese version, page 150-157******

    

  1 2 3 4 5